Thực tiễn

Giải pháp phát triển một số ngành dịch vụ trọng tâm trên địa bàn Bắc Giang hiện nay

27/05/2025 08:22

(LLCT) - Phát triển dịch vụ là một trong những định hướng lớn góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở những tiềm năng, thế mạnh của địa phương, Bắc Giang đã xác định một số ngành dịch vụ trọng tâm cần tập trung đầu tư phát triển với mục tiêu từng bước tăng tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ trong GRDP khoảng 24-25%. Bài viết làm rõ những kết quả đạt được, một số hạn chế và nguyên nhân trong phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển các ngành dịch trọng tâm trong thời gian tới.

ThS ĐỖ VĂN LANH
Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Quảng bá du lịch Bắc Giang thông qua Tuần Văn hóa - Du lịch
Lễ khai mạc Tuần Văn hóa - Du lịch và khai hội Xuân Tây Yên Tử tỉnh Bắc Giang năm 2025_Ảnh:tuoitrethudo.vn

1. Mở đầu

Tỉnh Bắc Giang có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, đặc biệt là liền kề tam giác kinh tế phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có hệ thống giao thông thuận lợi (đường bộ, đường sông, đường sắt). Đường bộ có hệ thống đường cao tốc kết nối với Bắc Ninh, Hà Nội, Lạng Sơn, Thái Nguyên và kết nối liên thông với Hải Phòng, Quảng Ninh, thuận lợi cho hoạt động thông thương hàng hóa, xuất, nhập khẩu.

Bắc Giang có bề dày lịch sử, với hơn 2.230 di tích, trong đó có 731 di tích lịch sử được xếp hạng, nhiều di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật đặc sắc tiêu biểu như: di tích quốc gia đặc biệt chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà, di tích Chiến thắng Xương Giang và di tích lịch sử cách mạng quốc gia đặc biệt An toàn khu II Hiệp Hòa,... có 2 di sản được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể là Quan họ và Ca trù. Là địa phương giàu truyền thống văn hóa với hơn 500 lễ hội được tổ chức hằng năm, trong đó có những lễ hội được công nhận là di sản phi vật thể quốc gia như: lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm, lễ hội Yên Thế, Thổ Hà,...

Phát huy những tiềm năng, lợi thế của tỉnh, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng đúng đắn, sự cố gắng, nỗ lực, đổi mới sáng tạo của cấp ủy, chính quyền các cấp và đặc biệt là sự chung tay, đồng lòng của nhân dân, đã đánh thức những thế mạnh của địa phương, thực hiện mục tiêu phát triển nhanh, bền vững.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trên các lĩnh vực, vẫn còn một số ngành phát triển manh mún, thiếu liên kết trong phát triển kinh tế.

2. Nội dung

2.1. Thực trạng phát triển ngành dịch vụ

Trong những năm qua, ngành dịch vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã đạt được kết quả tích cực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Hoạt động thương mại mở rộng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế; các ngành dịch vụ, hạ tầng thương mại, dịch vụ huy động nhiều nguồn lực đầu tư, có bước phát triển đáng kể, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, từng bước giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu của nhân dân.

Ngành dịch vụ đã phục hồi nhanh sau đại dịch Covid-19, với quy mô liên tục gia tăng mạnh mẽ. Sau đại dịch Covid-19, lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống đã phục hồi, tăng trưởng bình quân 10,1%/năm; hoạt động y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có sự tăng trưởng mạnh với tốc độ tăng trưởng trung bình 12,6%/năm; các ngành dịch vụ công như: giáo dục và đào tạo, hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ duy trì mức tăng trưởng từ 4-5%/năm(1).

Năm 2023, giá trị gia tăng ngành dịch vụ đạt 35.475 tỷ đồng, gấp 1,8 lần so với năm 2016; năm 2024, giá trị toàn ngành dịch vụ đạt 63.514 tỷ đồng, tăng 11,6%, vượt 7,6% kế hoạch(2). Cụ thể:

Công tác xúc tiến thương mại các sản phẩm nông sản chủ lực đặc trưng kết hợp quảng bá, giới thiệu văn hóa, du lịch được đẩy mạnh và đi vào chiều sâu. Đặc biệt, việc xúc tiến thương mại sản phẩm “vải thiều” năm 2023-2024 đã góp phần nâng cao giá trị thương hiệu trong nước và quốc tế. Công tác thu hút đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ đạt kết quả tích cực, một số tập đoàn lớn tham gia cung ứng dịch vụ như: Vingroup, FPT, Go, Coopmart…

Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng qua các năm: năm 2021 đạt 34.032 tỷ đồng, tăng 9,1% so với năm 2020; năm 2022 đạt 40.045 tỷ đồng, tăng 20,8%; năm 2023 đạt 56.500 tỷ đồng, tăng 13%. Tốc độ tăng bình quân các năm 2021-2023 đạt 13,8%/năm. Năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2023, đạt 66,9 nghìn tỷ đồng. Quý 1 năm 2025, giá trị sản xuất toàn ngành tăng khoảng 5,63%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ 03 tháng đạt 17.646 tỷ đồng, tăng 10,2% so với cùng kỳ, đạt 25,8% kế hoạch(4).

Hạ tầng dịch vụ phát triển, từng bước mở rộng các kênh phân phối hàng hóa, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Nhiều hình thức kinh doanh mới, hiện đại, chuyên nghiệp được đầu tư, mở rộng hệ thống phân phối như: cửa hàng tiện lợi, trung tâm thương mại, siêu thị…

Mở rộng hoạt động thương mại tự do đã thu hút được sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đáp ứng cơ bản nhu cầu sản xuất, ổn định giá cả thị trường và tạo nhiều việc làm cho lao động ở địa phương, nhất là nguồn lao động dôi dư ở nông thôn.

Bên cạnh những kết quả đạt được, sự phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành dịch vụ còn chậm và không rõ ràng. Hệ thống mạng lưới dịch vụ, chất lượng dịch vụ chưa thực sự thu hút, hấp dẫn các chuyên gia, người nước ngoài đang làm việc tại địa phương, nhất là nhóm dịch vụ vui chơi, giải trí, mua sắm, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái… Các lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao vẫn là các lĩnh vực dịch vụ truyền thống như: bán buôn, bán lẻ, hoạt động kinh doanh bất động sản; dịch vụ khoa học công nghệ, dịch vụ tài chính chưa phát triển tương xứng với tiềm năng.

Trong cơ cấu kinh tế, tỷ trọng ngành dịch vụ có xu hướng giảm. Tỷ lệ nhân lực qua đào tạo thấp, chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là một số ngành dịch có lợi thế như: dịch vụ du lịch, nghỉ dưỡng chất lượng cao, dịch vụ y tế chất lượng cao…

Hệ thống hạ tầng phục vụ phát triển ngành dịch vụ chưa đồng bộ; chưa có hệ thống khách sạn đạt tiêu chuẩn 5 sao; chưa có trung tâm tổ chức sự kiện mang tầm quốc gia, khu vực và quốc tế; thiếu resort, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí quy mô lớn, đẳng cấp. Dịch vụ ở các điểm du lịch còn đơn điệu, nhỏ lẻ, thiếu tính liên kết; các dịch vụ công nghiệp mới ở giai đoạn đầu, chưa có nhiều dịch vụ chất lượng cao như logistics, cảng cạn (ICD)…

Nguyên nhân của những hạn chế trên là:

Một là, việc quy hoạch phát triển một số ngành dịch vụ chưa được quan tâm đúng mức, nhất là đối với ngành dịch vụ du lịch có tiềm năng.

Hai là, rào cản về thủ tục pháp lý khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất phát triển dịch vụ còn nhiều vướng mắc về quy định của pháp luật.

Ba là, một số cấp ủy, chính quyền, nhân dân và doanh nghiệp chưa nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí, vai trò của ngành dịch vụ trong phát triển kinh tế - xã hội nên chưa quan tâm đúng mức trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển những ngành dịch vụ mũi nhọn, phát huy tiềm năng của từng địa phương trong tỉnh.

2.2. Giải pháp phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn

Nhằm từng bước đưa địa bàn tỉnh Bắc Giang trở thành cửa ngõ, trung tâm trung chuyển hàng hóa, vận tải, kho bãi, logistics, thương mại, tài chính, vui chơi giải trí, trung tâm y tế, giáo dục và dạy nghề chất lượng cao của vùng trung du và miền núi phía Bắc, giai đoạn 2025-2030, Tỉnh ủy Bắc Giang xác định các ngành dịch vụ tập trung đầu tư, phát triển là: (1) dịch vụ vận tải logistics; (2) dịch vụ du lịch (trọng tâm là du lịch nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí); (3) dịch vụ tài chính ngân hàng; (4) dịch vụ kinh tế ban đêm, dịch vụ thể thao, văn hóa; (5) dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ; (6) dịch vụ giáo dục và dạy nghề chất lượng cao; (7) dịch vụ thương mại tại đô thị và quanh các khu công nghiệp.

Để nâng cao tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế, cần thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp:

Một là, cấp ủy, chính quyền các cấp cần thực hiện tốt công tác nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ trương phát triển ngành dịch vụ nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng và lợi ích lâu dài của việc phát triển dịch vụ trong sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển kinh tế - xã hội bền vững, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu hút đầu tư.

Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tham gia phát triển dịch vụ. Phát hiện và nhân rộng những cách làm đổi mới, sáng tạo, mang lại giá trị kinh tế cao với chất lượng dịch vụ tốt.

Mặt khác, cần xác định phát triển ngành dịch vụ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội, có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng, sự quản lý thống nhất của chính quyền. Phát triển dịch vụ trên cơ sở phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế đặc trưng của từng địa phương gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh, giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường, ứng dụng hiệu quả thành tựu khoa học công nghệ, giải quyết tốt vấn đề việc làm và an sinh xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh trong tình hình mới.

Xác định dịch vụ là ngành kinh tế tương lai và phát triển dịch vụ ngày càng đa dạng, có bước đột phá, dần trở thành khu vực kinh tế mũi nhọn, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GRDP, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung phát triển ngành dịch vụ nhanh, có trọng tâm, trọng điểm đi đôi với hiệu quả, bền vững, hướng tới hình thành nền kinh tế với cơ cấu hiện đại, trong đó chú trọng phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế; quan tâm phát triển ngành dịch vụ thiết yếu, khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ mới, mang lại giá trị cao.

Hai là, đổi mới, nâng cao năng lực liên kết giữa các ngành dịch vụ để tăng cường năng lực cạnh tranh. Thực tế cho thấy, khâu yếu nhất trong phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn hiện nay là liên kết giữa các ngành để quảng bá thương hiệu dịch vụ. Mỗi ngành dịch vụ tự đưa mục tiêu, chiến lược phát triển riêng, không có sự liên kết với các ngành dịch vụ liên quan trong chiến lược phát triển, vì vậy thiếu tính bền vững và mang lại giá trị kinh tế thấp. Thí dụ, phát triển ngành du lịch phải gắn liền với kinh tế nông nghiệp, với các hợp tác xã nông nghiệp sản xuất các sản phẩm nông sản đạt tiêu chuẩn OCOP để giới thiệu, quảng bá, bán sản phẩm nông nghiệp sạch cho khách du lịch; phát triển du lịch phải quy hoạch, xây dựng nhiều khu kinh tế đêm nhằm giữ du khách ở lại địa phương để trải nghiệm, hưởng thụ các dịch vụ …

Bên cạnh đó, cần có chính sách cụ thể để thu hút các tập đoàn, doanh nghiệp trong nước, nước ngoài đầu tư và phát triển dịch vụ trên địa bàn, nhất là những dịch vụ trọng tâm theo cơ chế hài hòa lợi ích và cộng đồng trách nhiệm trong phát triển dịch vụ, nhất là đối với các ngành dịch vụ du lịch, nghỉ dưỡng chất lượng cao, vận tải, logistics…

Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập, quản lý các quy hoạch, tạo quỹ đất phát triển thương mại dịch vụ; xây dựng và triển khai các cơ chế, chính sách phát triển thương mại, dịch vụ.

Thực hiện tốt công tác hoạch định chiến lược nhằm phát triển các ngành dịch vụ bảo đảm chất lượng và tính khả thi cao. Rà soát, điều chỉnh Quy hoạch giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 phù hợp với tình hình thực tiễn nhằm phát huy những lợi thế, tiềm năng theo hướng đồng bộ và thống nhất giữa các cấp, các ngành, nhất là các ngành dịch vụ có liên quan trực tiếp với nhau. Đặc biệt, đối với các địa bàn đô thị cần có chính sách ưu tiên quỹ đất phù hợp để phát triển các dịch vụ thương mại phù hợp với tiềm năng, lợi thế. Cụ thể, cần ưu tiên quỹ đất đủ lớn để phát triển dịch vụ; khu nhà ở, chung cư cao cấp, dịch vụ nghỉ dưỡng chất lượng cao xung quanh các sân golf, trung tâm thương mại quốc tế… nhằm thu hút những chuyên gia, những người có thu nhập cao ở các tỉnh lân cận đến sử dụng dịch vụ. Đồng thời, có chính sách phù hợp nhằm thu hút đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ từ các tập đoàn kinh tế trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, tiếp tục rà soát, quy hoạch các điểm dịch vụ quanh các khu, cụm công nghiệp nhằm phát huy những thế mạnh của từng địa phương.

Bốn là, cần xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ thúc đẩy phát triển dịch vụ trên địa bàn, đặc biệt đối với các dịch vụ có nhiều lợi thế.

Với một số ngành dịch vụ trọng tâm đã được xác định (du lịch; dịch vụ kinh tế đêm; logistics…), cần nghiên cứu, xây dựng và sớm ban hành cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ thúc đẩy phát triển dịch vụ trên địa bàn. Hướng hỗ trợ từ khâu ưu tiên trong quy hoạch phát triển dịch vụ ở từng địa phương khác nhau đến khâu giải phóng mặt bằng, xúc tiến kêu gọi đầu tư của doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế, đến ưu tiên chính sách thuế, thủ tục đầu tư nhanh gọn. Đặc biệt, đối với ngành du lịch, cần ưu tiên quy hoạch các điểm du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng tại các địa phương có lợi thế; trên cơ sở đó có chính sách hỗ trợ đào tạo người dân làm du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái nhằm nâng cao nhận thức, kỹ năng, phương pháp làm du lịch chuyên nghiệp mang lại giá trị kinh tế cao.

Cùng với đó, tỉnh cần sớm xác định rõ các nhiệm vụ, tiến độ thực hiện cụ thể của từng cơ quan, đơn vị, địa phương trong phát triển từng dịch vụ phù hợp với tiềm năng, lợi thế. Đồng thời, phải gắn trách nhiệm cụ thể đối với từng cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, cơ quan theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện kế hoạch và định kỳ báo cáo UBND tỉnh theo kế hoạch.

Năm là, huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển dịch vụ. Để phát triển một số ngành dịch vụ trọng tâm theo Nghị quyết 371-NQ/TU thì việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển dịch vụ có ý nghĩa quan trọng, tạo tiền đề để các dịch vụ phát triển đồng bộ. Khi phát triển kết cấu hạ tầng kết nối đồng bộ giữa các địa phương trong tỉnh và liên tỉnh thì sẽ thu hút được các nhà đầu tư trong nước, quốc tế có năng lực, uy tín để tham gia cung ứng dịch vụ trên địa bàn.

Cần ưu tiên phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng; hạ tầng đô thị quy mô lớn, đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu tổ chức các sự kiện văn hóa, thể thao quy mô toàn quốc, khu vực và quốc tế. Hệ thống hạ tầng đồng bộ có thể phục vụ được hoạt động du lịch tâm linh, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, hướng tới du lịch hội thảo… Đồng thời, cần thực hiện có hiệu quả kế hoạch đầu tư công trong phát triển hạ tầng và từng bước có sự điều tiết, cân đối các nguồn lực kinh tế để phát triển hệ thống giao thông giữa các địa phương với nhau và với tỉnh bạn, nhằm tạo thuận lợi trong phát triển du lịch và các dịch vụ tiềm năng, lợi thế khác của tỉnh, nhất là các trục giao thông kết nối như: đường Vành đai 4 đi Hà Nội; cao tốc Nội Bài - Hạ Long đoạn qua địa bàn; đường Vành đai 5 thủ đô Hà Nội...

Cần quan tâm đúng mức hạ tầng nhà ở cho các đối tượng khác nhau. Song song với phát triển dự án nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp, công nhân nơi khác đến làm việc tại các khu, cụm công nghiệp, cần tập trung quy hoạch và sớm triển khai các dự án về đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại quốc tế; các khu vui chơi giải trí mang tầm quốc gia, quốc tế; khách sạn, căn hộ khách sạn nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân, thu hút khách nước ngoài, người có thu nhập cao đến sử dụng dịch vụ.

Sáu là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ các ngành dịch vụ trọng tâm.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các lĩnh vực nói chung và ngành dịch vụ nói riêng, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

Chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là yếu tố then chốt, quyết định sự phát triển nói chung và của từng ngành nói riêng. Do vậy, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực các ngành dịch vụ trọng tâm cần thực hiện một số biện pháp sau:

Rà soát nhân lực trong các ngành dịch vụ trọng tâm; đánh giá năng lực thực tế nguồn nhân lực để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng những nội dung, kiến thức, kỹ năng cần thiết của từng ngành dịch vụ.

Mỗi ngành dịch vụ, căn cứ năng lực thực tế của nguồn nhân lực, chủ động đề xuất hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu trong giai hiện nay. Đồng thời, có chương trình, kế hoạch liên kết với các trường đại học, cao đẳng để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cần thiết nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng yêu cầu của xã hội.

Chủ động kết nối, chia sẻ kỹ năng, kinh nghiệm và sự hợp tác để từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ liên ngành tốt nhất. Thực hiện tốt hoạt động định hướng nghề nghiệp và phân luồng trong giáo dục phổ thông, dạy nghề, đặc biệt định hướng đào tạo nghề phục vụ trong một số ngành dịch trọng tâm.

3. Kết luận

Phát triển dịch vụ, đặc biệt là những dịch vụ trọng tâm có ý nghĩa quan trọng nhằm khơi dậy và phát huy những tiềm năng, thế mạnh của địa phương góp phần đạt các mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, để đạt các mục tiêu phát triển dịch vụ, đòi hỏi sự quyết tâm, nỗ lực của toàn hệ thống chính trị các cấp, sự chung tay, đồng lòng của toàn thể nhân dân và doanh nghiệp. Mỗi chủ thể, với vai trò, trách nhiệm của mình, triển khai thực hiện hiệu quả các giải pháp phát triển ngành dịch vụ trọng tâm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng bền vững gắn với bảo vệ môi trường nhằm hoàn thành vượt các mục tiêu đề ra.

_________________

Ngày nhận: 20-4-2025; Ngày bình duyệt: 28-4-2025; Ngày duyệt đăng: 26-5-2025.

Email tác giả: lanh78bg@gmail.com

(1), (2), (3) Báo cáo số 3/BC-UBND ngày 08-01-2025 của UBND tỉnh Bắc Giang về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2025.

(4) Báo cáo số 10/BC-UBND ngày 08-4-2025 của UBND tỉnh Bắc Giang về tình hình kinh tế - xã hội tháng 3 và quý I; nhiệm vụ chủ yếu tháng 4 và quý II năm 2025.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Giải pháp phát triển một số ngành dịch vụ trọng tâm trên địa bàn Bắc Giang hiện nay
    POWERED BY