Thực tiễn

Giải pháp phát triển toàn diện người lao động Việt Nam hiện nay

07/06/2024 11:16

(LLCT) - Người lao động là nhân tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất, quyết định chất lượng của nền kinh tế mỗi quốc gia. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, phát triển toàn diện người lao động là nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị quan tâm. Bài viết phân tích thực trạng người lao động Việt Nam và những nội dung phát triển toàn diện người lao động, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển toàn diện người lao động Việt Nam hiện nay.

ThS NGUYỄN THỊ HÀ PHƯƠNG
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
PGS, TS HOÀNG THÚC LÂN

Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

Giải pháp phát triển toàn diện người lao động Việt Nam hiện nay

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi phải nâng cao chất lượng người lao động cả về thể lực, trí lực và tâm lực _ Ảnh: vneconomy.vn

Người lao động là những người tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của xã hội. Trong bối cảnh CNH, HĐH và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, vai trò của người lao động có những thay đổi, một bộ phận chuyển từ lao động đơn giản sang lao động phức tạp; từ lao động chân tay sang lao động trí óc... điều đó đã đặt ra những tiêu chuẩn mới đối với người lao động.

1. Phát triển toàn diện người lao động

Khái niệm người lao động

Trong triết học Mác - Lênin, người lao động là “chủ thể sáng tạo, là lực lượng sản xuất hàng đầu”(1) của lực lượng sản xuất; điều này được thể hiện rõ trong mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đặc biệt, người lao động là một trong những nhân tố không thể thiếu và cũng là nhân tố làm thay đổi lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử. Người lao động được hiểu là “lao động sống” khi kết hợp với “lao động vật hóa”(2) để tạo ra sức sản xuất, đây cũng là toàn bộ năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất xã hội ở các thời kỳ nhất định. V.I.Lênin khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”(3).

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, người lao động được hiểu là “con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội”(4). Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển không ngừng của khoa học - kỹ thuật - công nghệ dẫn đến việc đẩy mạnh ứng dụng các công cụ lao động tiên tiến trong sản xuất, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng người lao động cả về thể lực, trí lực và tâm lực. Người lao động bao gồm các yếu tố:

Thể lực người lao động: Thể lực biểu thị sự phát triển hài hòa của con người cả về mặt thể chất và tinh thần, hay chính là sự hài hòa giữa sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần của người lao động. Thể lực thể hiện khả năng lao động tay chân, sức khỏe tinh thần, khả năng chịu đựng áp lực của thần kinh từ các hoạt động sống, là năng lực của sự vận động trí tuệ, là cách tư duy điều khiển hành động thực tiễn. Người lao động có thể lực tốt thể hiện ở các chỉ số hình thể đạt chuẩn, mức độ nhanh nhạy, tháo vát, độ dẻo dai, sức bền của cơ bắp trong quá trình làm việc, nghiên cứu và sáng tạo ra những sản phẩm chất lượng tốt trong quá trình làm việc.

Trí lực của người lao động: Trí lực là khả năng nhận thức, là sự tiếp nhận tri thức, khái quát kiến thức, kinh nghiệm cuộc sống, biểu hiện ở giai đoạn nhận thức lý tính. Trí lực của người lao động bao gồm trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tổng hợp các kỹ năng mềm.

Trình độ văn hóa thể hiện khả năng dung nạp những tri thức cơ bản của người lao động trong những hoạt động giản đơn nhằm duy trì sự sống. Thông qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân, trình độ văn hóa của người lao động được hình thành. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là sự tổng hợp các kiến thức và kỹ năng cần thiết giúp người lao động đáp ứng yêu cầu của công việc.

Kỹ năng mềm hay còn gọi là kỹ năng thực hành xã hội, liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ, thể hiện thái độ, suy nghĩ và hành động giao tiếp giữa con người với con người. Trong môi trường lao động, kỹ năng mềm là một yếu tố dẫn đến sự thành công. Một số kỹ năng mềm mà người lao động cần trau dồi là: kỹ năng sống, giao tiếp, giải quyết tình huống, làm việc nhóm; kỹ năng lãnh đạo; kỹ năng quản lý thời gian, tin học và ngoại ngữ... Đây là những kỹ năng được người lao động tích lũy trong thực tế cuộc sống, góp phần bổ trợ, giúp cho năng lực làm việc của người lao động trở nên hoàn thiện hơn.

Tâm lực của người lao động:Tâm lực là sức mạnh tâm lý của con người. Tâm lực tốt thể hiện ở việc người lao động có ý thức trách nhiệm trong công việc, kỷ luật lao động, ý chí phấn đấu, thái độ và tác phong làm việc. Tâm lực còn được biểu hiện ở sự độc lập trong thực hiện nhiệm vụ được giao, tinh thần đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ đồng nghiệp, khả năng làm việc nhóm và sự tận tụy với công việc. Nhân cách, thẩm mỹ, quan điểm sống cũng phản ánh tâm lực của người lao động. Để đánh giá nguồn nhân lực, nhân cách, phẩm chất đạo đức đóng vai trò quan trọng, vì những yếu tố này giúp người lao động có thể làm tốt hơn các chức năng kinh tế và chức năng xã hội của họ và là cơ sở cho người lao động thúc đẩy khả năng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn.Trong quá trình làm việc, người lao động cần tuân thủ kỷ luật lao động, có sự tự giác, khả năng giao tiếp và phong thái ứng xử với những người xung quanh phù hợp.

Người lao động là những người sử dụng tổng hợp toàn bộ sức mạnh thể lực, tâm lực và trí lực tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm phục vụ xã hội. Đây cũng chính là một thành tố quan trọng hình thành nên lực lượng sản xuất.

Phát triển toàn diện người lao động

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật”(5).

Phát triển toàn diện người lao động là khái niệm dùng để chỉ quá trình tác động biện chứng giữa các chủ thể lãnh đạo, quản lý, giáo dục và đào tạo, sử dụng nhân lực với người lao động, làm cho họ vận động tiến lên, hoàn thiện bản thân trên tất cả các mặt thể lực, trí lực, tâm lực và sự kết hợp biện chứng giữa các mặt đó trong quá trình lao động nhằm đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn xã hội.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc”(6) và “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoaị ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”(7).

Tiêu chuẩn phát triển toàn diện người lao động là sự tăng lên cả về thể lực, trí lực và tâm lực, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn nền sản xuất xã hội. Mỗi ngành, nghề nhất định đặt ra cho người lao động những tiêu chuẩn khác nhau về thể lực (chiều cao, cân nặng, sự dẻo dai), trí lực (trình độ chuyên môn; các kỹ năng mềm) và tâm lực (đạo đức nghề, lòng yêu nghề). Đồng thời, mỗi giai đoạn lịch sử tương ứng với trình độ của nền sản xuất thì tiêu chuẩn của người lao động có sự biến đổi khác nhau. Chẳng hạn, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, tiêu chuẩn người lao động đề cao ý thức phục tùng mệnh lệnh cấp trên, con người tập thể… Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa, người lao động cần có sự phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ cùng các kỹ năng mềm trong giải quyết công việc.

3. Thực trạng nguồn lực lao động Việt Nam hiện nay

Về số lượng

Theo Tổng cục Thống kê, lực lượnglao động từ 15 tuổi trở lên ở nước ta năm 2023 là 52,4 triệu người, tăng 666,5 nghìn so với năm 2022. Trong đó, nữ giới là 24,5 triệu người, chiếm 46,7%; nam giới là 27,9 triệu người, chiếm 53,3%. Lao động ở khu vực thành thị là 19,5 triệu người, chiếm 37,3%, khu vực nông thôn là 32,9 triệu người, chiếm 62,7%(8).

Như vậy, nguồn lực lao động của Việt Nam tương đối dồi dào, về cơ bản có sự cân đối giữa lao động nam và nữ, nếu chúng ta có cơ chế đúng đắn, khơi dạy nhân lực sẽ thúc đẩy và phát huy hiệu quả nguồn nhân lực lao động cho đất nước.

Về chất lượng nguồn lao động

Theo thống kê của Bộ lao động, Thương Binh và Xã hội, tình trạng thể lực của người lao động Việt Nam thể hiện qua các chỉ số chiều cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai đều ở mức trung bình. Cụ thể: chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam từ 15 tuổi trở lên thấp hơn so với chuẩn quốc tế 8,34 cm đối với nam giới và 9,13 cm đối với nữ giới. Nam giới Việt Nam thấp hơn so với nam giới Nhật Bản là 8 cm và sự chênh lệch chiều cao của nữ giới Việt Nam so với nữ giới Nhật Bản là 4 cm. Đối với thanh niên các nước trong khu vực như Thái Lan hoặc Xingapo, thanh niên Việt Nam thấp hơn từ 2-6 cm(9).Với tình trạng này, thể lực người lao động Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu về cường độ làm việc hay khả năng sử dụng máy móc, thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế, ảnh hưởng đến quá trình vận hành thiết bị, dây chuyền sản xuất,… do đó năng suất lao động chưa cao.

Trí lực của người lao động: Trong những năm gần đây, tỷ lệ người lao động qua đào tạo có sự cải thiện nhưng chưa đáng kể. Trong quý IV năm 2023, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ là 27,6%, cao hơn 0,3% so với quý III và tăng 1,2 % so với cùng kỳ năm 2022. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, tốc độ và trình độ phát triển của lao động Việt Nam còn chậm. Mặc dù đã có cơ chế đào tạo và sử dụng người lao động nhưng vẫn chưa phát huy được hiệu quả. Trình độ chuyên môn, khả năng ứng dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật của lao động Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Tính đến cuối năm 2023, cả nước vẫn còn 38 triệu lao động chưa qua đào tạo(10). Thực trạng này đặt ra thách thức lớn cho Việt Nam trong việc nâng cao chất lượng người lao động. Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội,các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam đang có sự thiếu hụtđội ngũ nhân công, kỹ thuật viên lành nghề.

Nhìn chung, nguồn nhân lực nước ta có sự gia tăng về số lượng, nhưng về chất lượng còn một số hạn chế nhất định. Đội ngũ người lao động Việt Nam được đánh giá cao về mặt lý thuyết nhưng năng lực thực hành cũng như khả năng ứng dụng công nghệ, kỹ thuật cao vào quá trình lao động, sản xuất còn hạn chế. Bên cạnh đó, đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật lao động của một bộ phận người lao động hiện nay chưa được đánh giá cao. Người lao động Việt Nam cần cải thiện những hạn chế về trình độ ngoại ngữ, tin học và nâng cao khả năng thích nghi với môi trường làm việc có áp lực cạnh tranh, cũng như trau dồi các kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, quản lý thời gian và năng lực giải quyết xung đột trong quá trình lao động. Vì thế, việc quan tâm khắc phục hạn chế, phát huy thế mạnh, tạo nên thế hệ người lao động phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, tâm lực là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

3. Một số giải pháp phát triển toàn diện người lao động Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Một là, phát triển toàn diện người lao động là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị

Phát triển toàn diện người lao động ở Việt Nam là nhiệm vụ chiến lược quan trọng được Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm, đẩy mạnh thực hiện trên cả ba phương diện: phát triển thể lực, trí lực và tâm lực của người lao động.

Thứ nhất, nâng cao thể chất của người lao động Việt Nam. Đề án “Tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011 - 2030” đã đưa ra mục tiêu: “Phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam trong 20 năm tới để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; từng bước nâng cao chất lượng giống nòi và tăng tuổi thọ khỏe mạnh của người Việt Nam”(11). Để nâng cao thể chất, tầm vóc người Việt Nam, cần phát triển y tế cơ sở, y tế dự phòng; các hoạt động sàng lọc, khám chữa bệnh cần thực hiện nhanh chóng, kịp thời để bảo đảm sức khỏe người lao động. Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ vào lĩnh vực y tế để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe người lao động cần được chú trọng.Công đoàn các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp, công ty cần có những hoạt động thiết thực chăm lo cho thể chất người lao động như: cải thiện bữa ăn hàng ngày của người lao động, bảo đảm giá trị dinh dưỡng, xây dựng chế độ làm việc kết hợp với nghỉ ngơi và tổ chức các hoạt động thể chất khác (thể dục, thể thao) để tăng thể lực và độ dẻo dai cho người lao động.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc”

Thứ hai, nâng cao tri thức, kỹ năng cho người lao động, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Hạn chế của nguồn lực lao động Việt Nam là: “thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế”(12). Vì thế, để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, cần chú trọng gắn kết 3 khâu: đào tạo, sử dụng, đãi ngộ.

Việc đào tạo nguồn lực lao động phải theo hướng phát triển kiến thức, kỹ năng, thái độ, để người lao động có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu quá trình CNH, HĐH đất nước, đồng thời có thể tiếp cận thị trường lao động quốc tế, nắm bắt được cơ hội trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem đến cả những thuận lợi và khó khăn. Các cơ sở giáo dục đào tạo, đặc biệt là các trường cao đẳng, đại học, các trường nghề… cần được trang bị đầy đủ các thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình học tập, rèn luyện, nâng cao tay nghề của người học. Đa dạng hoá các phương thức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề thành thạo cho nhà giáo đang giảng dạy những ngành, nghề trọng điểm. Đội ngũ cán bộ quản lý tại các cơ sở đào tạo phải được chuẩn hóa, bảo đảm năng lực quản lý - quản trị hiện đại, bắt kịp xu hướng đổi mới sáng tạo, có trình độ ngoại ngữ và có kỹ năng số.

Bên cạnh đó, cần chú trọng việc thu hút nhân tài, trọng dụng những người có năng lực làm việc, có lòng trung thành, có quyết tâm cao độ cống hiến cho đất nước. Việc xây dựng chính sách phù hợp về sử dụng, đãi ngộchính là động lực khuyến khích, làm cho người lao động gắn bó, đồng hành lâu dài và phát huy tính sáng tạo trong quá trình làm việc.

Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và kỷ luật lao động để người lao động hoàn thiện tâm lực. Người lao động cần được phổ biến rộng rãi về quyền, nghĩa vụ của mình cũng như các giá trị lợi ích đạt được khi thực hiện tốt pháp luật về lao động. Để làm được điều đó, chương trình đào tạo tại các cơ sở giáo dục đào tạo, dạy nghề cần chú trọng tổ chức các hoạt động nhằm rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm trong lao động. Qua đó, người lao động rèn luyện được tác phong làm việc nhanh nhạy, có ý thức trau dồi chuyên môn, ý chí phấn đấu trong công việc, có kỹ năng hợp tác, làm việc nhóm và tâm huyết với nghề.Các cơ sở giáo dục, doanh nghiệp, cơ quan chức năng cần kịp thời biểu dương những tấm gương người tốt, việc tốt tạo nên hình ảnh đẹp của người lao động Việt Nam, đồng thời, lên án, xử lý những cá nhân, tập thể vi phạm kỷ luật lao động, nhằm góp phần xây dựng môi trường lao động chuyên nghiệp.

Hai là, phát triển toàn diện người lao động phải đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất

Lực lượng sản xuất là một chỉnh thể thống nhất, các yếu tố của tư liệu sản xuất và người lao động có sự tác động qua lại một cách biện chứng với nhau. Trong đó, có vai trò ngày càng cao của khoa học - kỹ thuật - công nghệ. Vì thế, để nâng cao chất lượng người lao động Việt Nam hiện nay cần thực hiện giải pháp gắn với sự vận động trong hệ thống cấu trúc của lực lượng sản xuất:

Thứ nhất, phát triển người lao động phải gắn với xây dựng tư liệu sản xuất tiên tiến. Chỉ khi tư liệu sản xuất đạt trình độ tiến tiến mới có thể đặt ra những yêu cầu cao đối với việc phát triển người lao động về các tiêu chí thể chất, kỹ năng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tư liệu sản xuất tiên tiến, hiện đại còn là cơ sở cho một quan hệ sản xuất phù hợp với nó, làm cho người lao động có thái độ tích cực xã hội khi tham gia vào quá trình sản xuất. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố cấu thành nên lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Thứ hai, phát triển người lao động chất lượng cao phải gắn với việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ hiện đại. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là minh chứng rõ nét nhất cho sự hiện hữu của khoa học công nghệ vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, làm cho trình độ của người lao động thay đổi. Để ứng dụng hiệu quả các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào sản xuất, người lao động phải ngày càng tích lũy đầy đủ tri thức hơn nữa, để có thể biến những tiến bộ của khoa học thành công cụ hỗ trợ sản xuất. Sự xuất hiện của các tư liệu lao động hiện đại sẽ trực tiếp kích thích người lao động và khiến người lao động phải chủ động học tập, nỗ lực nâng cao trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng, kinh nghiệm ứng dụng công nghệ hiện đại, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất.

Ba là, giải quyết tốt sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nền tảng nâng cao chất lượng nguồn lực lao động, đáp ứng yêu cầu của thời đại về đội ngũ lao động có quy mô và cơ cấu hợp lý, có trình độ, trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy kinh tế - xã hội.

Thứ nhất, cần thay đổi mô hình giáo dục - đào tạo, lấy mô hình giáo dục đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động làm trọng tâm. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các hoạt động đào tạo lao động và lao động chất lượng cao, cần tìm ra nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Các dự báo về nhu cầu lao động và quá trình kiểm định chất lượng đào tạo tại các cơ quan chức năng, các trung tâm kiểm định chất lượng đào tạo phải bảo đảm tính độc lập. Đặc biệt, chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng và các cơ sở đào tạo nghề phải bảo đảm chuẩn đầu ra gắn với nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động.

Thứ hai, cải thiện tiền lương, thu nhập, chế độ đãi ngộ đối với lao động cũng như có chính sách khuyến khích, hỗ trợ học phí cho người học nghề. Thời gian qua, chính sách về tiền lương, chế độ đãi ngộ đối lao động còn nhiều bất cập. Chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ hợp lý, phúc lợi xã hội được bảo đảm sẽ tác động tích cực đến tinh thần và thái độ của người lao động, tạo động lực để hăng say học tập, hứng thú tiếp nhận những tri thức mới, để ngày một hoàn thiện trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và là động lực khuyến khích người lao động phát triển.

Thứ ba, cần hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường lao động Việt Nam phát triển phù hợp với quy luật thị trường. Tăng cường sự kết nối giữa thị trường lao động trong nước với thị trường lao động quốc tế, nhất là khối ASEAN và các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,… Sự hợp tác này sẽ thu hút được đội ngũ lao động chất lượng cao, chuyên gia giỏi trong và ngoài nước, qua đó, góp phần giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động chất lượng cao ở một số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Thứ tư, phát triển đồng bộ các loại thị trường, trong đó, cần quan tâm, chú trọng thị trường khoa học và công nghệ. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách đặc thù của thị trường khoa học và công nghệ, qua đó tạo động lực phát triển lực lượng lao động chất lượng cao. Cần ban hành và thực hiện hiệu quả các chính sách ứng dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ vào thực tiễn sản xuất; hình thành hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp; thực hành mô hình giáo dục có sự kết hợp giữa trường học với doanh nghiệp; triển khai các trung tâm nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ tại doanh nghiệp; tạo điều kiện để các nhà khoa học, chuyên gia nghiên cứu phát huy năng lực sáng tạo, thúc đẩy tạo ra các sáng chế, phát minh khoa học.

Thứ năm, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, trong đó các ngành công nghiệp công nghệ cao được xác định là mũi nhọn của sự đột phá. Nền tảng cho sự thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế là tập trung vào “vốn con người” và đẩy mạnh hoạt động khoa học - công nghệ. Chỉ khi ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao thì mới diễn ra sự chuyển dịch lao động. Đây chính là giải pháp mang tính đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất, góp phần điều tiết cung, cầu lao động và sử dụng hiệu quả nguồn lao động trình độ cao.

Bốn là, người lao động phải tự vươn lên hoàn thiện bản thân, đáp ứng yêu cầu công việc

Người lao động vừa là chủ thể, đồng thời là đối tượng của sự phát triển toàn diện bản thân. Thực tế cho thấy, áp lực của nhà quản lý về tiêu chuẩn tuyển dụng và sử dụng nhân lực là nhân tố quan trọng giúp người lao động hoàn thiện bản thân theo các tiêu chuẩn về trình độ, kỹ năng và phẩm chất. Tuy nhiên, bên cạnh những đòi hỏi khách quan thì bản thân người lao động là nhân tố chủ quan giữ vai trò trung tâm, quyết định nhất. Chỉ khi người lao động tự nhìn nhận bản thân một cách nghiêm khắc, tìm ra hạn chế, khuyết điểm, đồng thời có khát vọng vươn lên thì mới có thể phát triển toàn diện. Chẳng hạn, để khắc phục được hạn chế về thể lực, người lao động cần có ý thức rèn luyện thể thao, cân đối chế độ dinh dưỡng, thời gian làm việc, nghỉ ngơi một cách khoa học, có ý thức chăm sóc bản thân. Do đó, vấn đề đặt ra là làm thế nào để người lao động có nhận thức đúng đắn và tự chuyển hóa thành hành động, qua đó đạt được hiệu quả trong quá trình phát triển toàn diện bản thân.

Phát triển toàn diện người lao động Việt Nam hiện nay là một tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn của xu thế hội nhập và toàn cầu hóa trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để phát triển toàn diện người lao động, phải thực hiện đồng bộ các giải pháp mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước; giải pháp từ phía các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị và giải pháp từ bản thân người lao động.

_________________

(1) (2) (4), (5) Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dùng cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr.300, 293, 293, 196.

(3) V.I.Lênin: Toàn tập, t.38, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1977, tr.430

(6), (7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr.231, 232-233.

(8) Tổng cục Thống kê: Tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2023.

(9), (10) Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội: Báo cáo Thực trạng cung cầu lao động năm 2023.

(11) Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 641/QĐ-TTg ngày 28/4/2011 về việc phê duyệt đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030.

(12) ĐCSVN:Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, 2008, tr.45.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Giải pháp phát triển toàn diện người lao động Việt Nam hiện nay
    POWERED BY