(LLCT) - Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí, vai trò chiến lược trong phát triển nông nghiệp của cả nước, đặc biệt trong sản xuất lương thực và thực phẩm. Những năm qua, các tỉnh ủy trong vùng đã lãnh đạo thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng xanh, hiệu quả, bền vững và đạt nhiều kết quả. Trên cơ sở làm rõ thực trạng, bài viết đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh uỷ ở đồng bằng sông Cửu Long góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững trong thời gian tới.
ThS PHAN THỊ MINH HIỀN
Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp
1. Mở đầu
Trong những năm qua, các tỉnh ủy ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết, định hướng của Trung ương về phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. Sự lãnh đạo đạt nhiều kết quả quan trọng, được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng, cải thiện đời sống người dân nông thôn và từng bước đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái. Nhiều mô hình canh tác theo hướng hữu cơ, sinh thái, thích ứng biến đổi khí hậu đã được hình thành và phát huy hiệu quả. Những kết quả đạt được đó là cơ sở thực tiễn các tỉnh ủy xác định định hướng, giải pháp nhằm tăng cường lãnh đạo tiếp tục thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững trong thời gian tới.
2. Nội dung
2.1. Thực trạng các tỉnh uỷ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững
Phát triển nông nghiệp bền vững là quá trình tăng trưởng nông nghiệp gắn với việc bảo đảm cân bằng giữa lợi ích kinh tế, trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Mô hình này không chỉ chú trọng hiệu quả sản xuất mà còn đặt trọng tâm vào việc xử lý các vấn đề xã hội phát sinh trong nông nghiệp, đồng thời chủ động thích ứng với những tác động của biến đổi khí hậu.
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa, trung tâm sản xuất thủy sản, trái cây lớn nhất cả nước; đóng góp 31,37% GDP toàn ngành nông nghiệp và hơn 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản, 70% lượng trái cây, 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng thủy sản xuất khẩu; đóng vai trò quan trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu(1)...; đóng vai trò quan trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu.
Các tỉnh uỷ lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững là toàn bộ hoạt động của các tỉnh uỷ trong việc quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển nông nghiệp bền vững; xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương của tỉnh uỷ về phát triển nông nghiệp bền vững; kiểm tra, giám sát các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc thực hiện nhằm phát triển nông nghiệp bền vững trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường. Cụ thể là:
Một là, các tỉnh uỷ xác định phương hướng, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp về phát triển nông nghiệp bền vững. Các tỉnh ủy xây dựng chủ trương phát triển nông nghiệp, đẩy nhanh thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xác định phương hướng phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững thông qua nghị quyết đại hội nhiệm kỳ; nghị quyết chuyên đề về phát triển nông nghiệp, chương trình hành động, kết luận của tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh uỷ. Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Tỉnh uỷ Bạc Liêu lãnh đạo thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng tập trung xây dựng cánh đồng lớn và nâng cao chuỗi giá trị gia tăng, phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; thực hiện các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; nâng cao hiệu quả sản xuất tôm, lúa gạo là trụ cột phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025, xác định quan điểm “Xây dựng tỉnh Đồng Tháp phát triển bền vững về nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất sạch, an toàn”.
Hai là, tỉnh uỷ lãnh đạo chính quyền tỉnh thể chế hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết của tỉnh ủy về phát triển nông nghiệp bền vững ở địa phương; lãnh đạo cấp uỷ các cấp thực hiện nghị quyết của tỉnh uỷ về phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. Sau mỗi kỳ đại hội, các tỉnh ủy đã kịp thời lãnh đạo chính quyền cụ thể hóa nội dung nghị quyết vào thực tiễn. Cụ thể, Tỉnh uỷ Vĩnh Long lãnh đạo UBND tỉnh ban hành Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh theo hướng nâng cao giá trị, hiệu quả và phát triển bền vững, giai đoạn 2014-2020; Tỉnh ủy Bến Tre lãnh đạo UBND tỉnh đã ban hành Đề án số 6227/ĐA-UBND ngày 18-12-2013 về tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh Bến Tre giai đoạn 2013 - 2015 và hướng đến năm 2020. Việc thể chế hóa các chủ trương đã tạo điều kiện cho chính quyền các cấp chủ động triển khai kế hoạch phát triển nông nghiệp phù hợp với điều kiện của từng địa phương.
Ba là, tỉnh uỷ lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ của các cơ quan chuyên môn về phát triển nông nghiệp. Các tỉnh ủy đều quan tâm lãnh đạo kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của chính quyền tỉnh và lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy về nâng cao chất lượng chính quyền cấp huyện và cấp xã. Trong đó, tỉnh ủy trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tổ chức bộ máy cán bộ, công chức và nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền tỉnh, các sở ngành. Các tỉnh ủy lãnh đạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp, coi trọng liên kết với các sơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để tiến hành đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nông nghiệp của tỉnh.
Bốn là, các tỉnh uỷ lãnh đạo thực hiện chủ trương, nghị quyết phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân. Hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở đổi mới nội dung, hình thức truyền thông qua hội nghị, lớp tập huấn, hội thi, phương tiện thông tin đại chúng, tài liệu hỏi - đáp; in ấn panô, áp phích, tuyên truyền trực quan; thực hiện phóng sự về nông nghiệp, nông thôn; báo, đài địa phương các tỉnh mở chuyên mục tuyên truyền các chủ trương, chính sách, chương trình, đề án của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; về kết quả ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; khai thác, giới thiệu, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua… nhằm lan tỏa rộng rãi chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp theo hướng xanh, bền vững, hiệu quả.
Tỉnh uỷ lãnh đạo chính quyền tỉnh phối hợp với các ban đảng, sở ngành tổ chức các hội nghị, báo cáo chuyên đề nhằm định hướng cho các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan báo chí kịp thời tổ chức tuyên truyền phổ biến sâu rộng quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp của tỉnh uỷ, chính quyền về định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp và giảm nghèo bền vững, góp phần thay đổi tư duy và hành động trong sản xuất, kinh doanh của người dân.
Năm là, các tỉnh uỷ lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, nghị quyết của tỉnh ủy về phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. Các tỉnh ủy thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm các chủ trương, nghị quyết về phát triển nông nghiệp bền vững được thực thi đúng định hướng.
Nội dung giám sát tập trung vào quá trình tổ chức thực hiện, từ việc quán triệt nghị quyết đến xây dựng kế hoạch, huy động nguồn lực và phối hợp giữa các lực lượng trong hệ thống chính trị. Đây là khâu then chốt giúp phát hiện, tháo gỡ kịp thời các vướng mắc và thúc đẩy việc hoàn thành các mục tiêu đề ra.
Trên cơ sở xác định nội dung, phương thức lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững phù hợp của các tỉnh uỷ ở vùng ĐBSCL, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả được thực hiện. Các tỉnh xây dựng mô hình sản xuất đa canh có hiệu quả cao theo hướng sản xuất sạch và bền vững phù hợp điều kiện sinh thái, xây dựng mô hình nuôi thủy sản; nuôi tôm sinh thái. Những mô hình nông nghiệp tích hợp đa giá trị, phù hợp với điều kiện tự nhiên đã xuất hiện ở nhiều địa phương trong vùng như: Mô hình kinh tế dưới tán rừng, mô hình tôm - lúa ở bán đảo Cà Mau; mô hình chuyển đổi từ độc canh cây lúa sang đa canh, xen canh đã tăng thu nhập cho nông dân vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên; mô hình sản xuất thích ứng với hạn mặn ở các tỉnh duyên hải; mô hình sinh thái “ruộng lúa, bờ hoa” đang được áp dụng gần đây ở nhiều tỉnh và cho hiệu quả cao như ở Sóc Trăng, Hậu Giang, An Giang… với khoảng 40.000 ha lúa. Hiện nay, các tỉnh đang triển khai thực hiện Đề án “Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” của Chính phủ nhằm tạo ra vùng chuyên canh lúa tập trung, quy mô lớn với sự liên kết giữa người trồng lúa, hợp tác xã và doanh nghiệp.
Hiện nay, nhiều mô hình “sinh kế thuận thiên” được triển khai trong vùng ĐBSCL và áp dụng chiến lược sinh kế dựa vào lũ như: mô hình lúa nổi kết hợp nuôi cá mùa lũ; chương trình phục hồi nguồn lợi thủy sản, tăng cường bồi lắng phù sa và trữ nước thông qua việc khôi phục các tiến trình lũ tự nhiên; sinh kế dựa vào lũ... mang lại nhiều kết quả tích cực trong việc giúp người dân thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bên cạnh kết quả đạt được, sự lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững của các tỉnh ủy ở vùng ĐBSCL còn một số khó khăn, hạn chế như:
Một là, chất lượng một số nghị quyết, chủ trương và định hướng về phát triển nông nghiệp bền vững còn hạn chế, nhất là về tính dự báo và giải pháp đột phá.
Hai là, việc phát huy vai trò của chính quyền các cấp trong triển khai thực hiện các nghị quyết, chủ trương của tỉnh ủy về phát triển nông nghiệp bền vững có lúc có nơi còn bị động, lúng túng, hiệu quả chưa cao.
Ba là, công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện nghị quyết, kế hoạch của tỉnh ủy về phát triển nông nghiệp bền vững ở một số tỉnh chưa được thực hiện thường xuyên, còn mang tính hình thức.
Thứ tư, công tác tổ chức, cán bộ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp còn những yếu kém, bất cập, hạn chế ảnh hưởng đến hiệu quả lãnh đạo phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững của các tỉnh ủy.
Những hạn chế trong lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững vùng ĐBSCL dẫn đến chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất ở một số địa phương chưa hiệu quả. Mặc dù lĩnh vực chăn nuôi và thủy sản có bước tăng trưởng nhưng tốc độ vẫn còn chậm và chưa tạo ra đột phá. Trong ngành trồng trọt, diện tích và sản lượng cây ăn trái không ngừng tăng, tuy nhiên giá trị gia tăng chưa tương xứng.
Sự liên kết trong chuỗi sản xuất nông nghiệp còn manh mún, thiếu tính bền vững và chưa khai thác hết tiềm năng vốn có. Kinh tế hợp tác, đặc biệt là mô hình hợp tác xã, chưa phát huy hiệu quả rõ nét, chưa thu hút được đông đảo nông dân tham gia; mô hình liên kết giữa các thành phần như "4 nhà", "6 nhà" còn rời rạc, thiếu tính ổn định khi thị trường biến động. Liên kết phát triển vùng vẫn còn lỏng lẻo, chưa gắn kết hiệu quả giữa phát triển sản xuất và bảo vệ môi trường.
Công tác dự báo thị trường còn chậm, thiếu chính xác, ảnh hưởng đến khả năng ra quyết định của người sản xuất. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đại hóa; công tác đào tạo nghề chưa sát với nhu cầu thực tế của thị trường. Tỷ lệ lao động trong nông nghiệp vẫn còn cao, tiềm ẩn rủi ro mất việc làm do thiên tai, dịch bệnh, mất mùa hoặc biến động giá cả, kéo theo nguy cơ tái nghèo và phát sinh thêm hộ nghèo mới còn cao.
2.2. Một số giải pháp tăng cường sự lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững của các tỉnh ủy ở vùng đồng bằng song Cửu Long trong thời gian tới
Thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, việc hợp nhất, sáp nhập một số tỉnh, thành phố ở ĐBSCL và tổ chức lại chính quyền địa phương hai cấp đang mở ra nhiều cơ hội mới cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nông nghiệp bền vững của các tỉnh ủy trong vùng. Bên cạnh đó, việc sắp xếp lại tổ chức hành chính cấp tỉnh và tổ chức chính quyền địa phương hai cấp theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả các tỉnh ủy vùng ĐBSCL đang được triển khai, nhiều vấn đề mới xuất hiện, đặt ra những yêu cầu mới trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành phát triển nông nghiệp bền vững.
Để tăng cường sự lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững của các tỉnh uỷ ở vùng ĐBSCL thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp như:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tỉnh uỷ viên, cấp uỷ viên cấp xã, cán bộ, đảng viên và nhân dân về tăng cường sự lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững giai đoạn hiện nay.
Trong bối cảnh thực hiện tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các tỉnh ủy viên, đảng ủy viên cấp xã, cán bộ, đảng viên về phát triển nông nghiệp bền vững có vai trò quyết định đến hiệu quả triển khai các nghị quyết, chính sách.
Cần đổi mới công tác quán triệt các nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các nghị quyết, quyết định của Trung ương như Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17-11-2017, Quyết định 150/QĐ-TTg ngày 28-01-2022 về phát triển nông nghiệp bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu. Việc học tập, quán triệt cần tổ chức phù hợp theo từng nhóm cán bộ, cấp ủy, có lớp chuyên đề cho cán bộ chủ chốt, đồng thời gắn với giám sát chặt chẽ quá trình xây dựng và triển khai chương trình hành động tại địa phương.
Các tỉnh ủy cần chú trọng lãnh đạo, định hướng xây dựng các chuyên trang, chuyên mục về nông nghiệp, nông dân, nông thôn bền vững, hiện đại trên các phương tiện truyền thông của địa phương. Cần tổ chức biên soạn các tài liệu phổ biến rộng rãi về đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng, Nhà nước và tỉnh ủy về phát triển nông nghiệp bền vững, đồng thời đưa nội dung này vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại trường chính trị cấp tỉnh, bảo đảm tính cập nhật kịp thời và phù hợp.
Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên và cán bộ tuyên truyền các cấp, thông qua đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên và có chính sách đãi ngộ hợp lý. Các tỉnh cũng cần chú trọng xây dựng quy định cụ thể về trách nhiệm của các cấp ủy, cán bộ, nhất là người đứng đầu trong lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững. Những cá nhân, tổ chức thực hiện tốt cần được khen thưởng kịp thời; ngược lại, cần xử lý nghiêm những sai phạm làm ảnh hưởng tới việc triển khai chủ trương, nghị quyết.
Hai là, tập trung lãnh đạo có hiệu quả công tác triển khai, tuyên truyền, tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết về phát triển nông nghiệp bền vững
Các tỉnh ủy tăng cường lãnh đạo cơ quan báo và đài địa phương để tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của tỉnh ủy, chính quyền tỉnh về phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. Chú trọng đổi mới nội dung và phương pháp tuyên truyền phù hợp từng đối tượng cán bộ, đảng viên, doanh nghiệp, người dân nhằm nâng cao nhận thức về vai trò của phát triển nông nghiệp bền vững trong thời kỳ CNH, HĐH. Cần đẩy mạnh phổ biến chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững đến toàn xã hội, khuyến khích sự tham gia chủ động của doanh nghiệp và người dân, tạo sự đồng thuận từ cấp ủy đến nhân dân, góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng quy mô lớn, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Đồng thời, tiếp tục phát động phong trào thi đua yêu nước gắn với tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững; tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 16-6-2022 và chương trình hành động của tỉnh ủy thực hiện nghị quyết nghiêm túc, sâu rộng. Mỗi địa phương, cơ quan, tổ chức cần xây dựng kế hoạch triển khai phù hợp nhằm phát huy tiềm năng và tạo chuyển biến rõ nét trong phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống người dân và diện mạo nông thôn.
Ba là, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của các tỉnh uỷ ở vùng ĐBSCL về phát triển nông nghiệp bền vững
Các tỉnh ủy cần nâng cao chất lượng nội dung lãnh đạo bằng cách xây dựng nghị quyết, quyết định, chương trình hành động về phát triển nông nghiệp bền vững bảo đảm thống nhất, đúng quy trình, phản ánh nguyện vọng nhân dân và phù hợp với định hướng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xu thế hội nhập quốc tế. Cần xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, điều chỉnh quy hoạch phù hợp thực tiễn và xây dựng đề án mang tính chiến lược toàn diện, gắn kết phát triển kinh tế nông nghiệp với các vấn đề xã hội, môi trường, quốc phòng - an ninh. Việc cụ thể hóa chủ trương phải rõ ràng, có mục tiêu và giải pháp cụ thể. Đồng thời, cần phát huy vai trò các sở ngành và huy động hiệu quả nguồn lực xã hội, doanh nghiệp tham gia phát triển nông nghiệp bền vững.
Về phương thức lãnh đạo, các tỉnh ủy cần tiếp tục đổi mới để nâng cao hiệu quả lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững. Cần cải tiến quy trình xây dựng văn bản lãnh đạo theo hướng khoa học, thực tiễn, huy động chuyên gia, cán bộ chuyên môn phản biện trước khi ban hành. Mỗi tỉnh ủy viên phải bám sát thực tế, lắng nghe ý kiến người dân, chủ động tháo gỡ khó khăn, góp phần nâng cao chất lượng các quyết sách. Đồng thời, cần chú trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu mô hình hay, cách làm hiệu quả, từ đó xây dựng phương án lãnh đạo phù hợp với tình hình thực tế địa phương.
Bốn là, nâng cao chất lượng tỉnh ủy, các cơ quan tham mưu, giúp việc tỉnh ủy đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững
Để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới, cần cụ thể hóa tiêu chuẩn đối với tỉnh ủy viên, ủy viên ban thường vụ, bí thư và phó bí thư tỉnh ủy trên cơ sở các quy định của Đảng. Đối với các tỉnh ủy viên tại vùng ĐBSCL cần nhấn mạnh những yêu cầu cụ thể về lập trường chính trị vững vàng, năng lực điều hành thực tiễn được thể hiện rõ qua kết quả hoàn thành nhiệm vụ; có uy tín cao trong tổ chức đảng và nhân dân; có tư duy sáng tạo, đổi mới, năng lực nắm bắt tình hình thực tiễn và đưa ra giải pháp phù hợp, hiệu quả đối với các vấn đề nảy sinh; phong cách làm việc khoa học, dân chủ, gần dân, dám đổi mới, dám chịu trách nhiệm.
Đối với ủy viên ban thường vụ tỉnh ủy, yêu cầu đặt ra là phải có phẩm chất vượt trội, toàn diện. Cùng với đó, công tác quy hoạch cán bộ phải đổi mới theo hướng dài hạn, bảo đảm cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc hợp lý. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ cần thực hiện đúng quy định, chú trọng cập nhật kiến thức chuyên sâu, đặc biệt về phát triển nông nghiệp bền vững. Việc đánh giá, giám sát cán bộ phải khách quan, toàn diện cả trong công tác lẫn quan hệ xã hội, sinh hoạt và nơi cư trú.
Bên cạnh đó, các tỉnh ủy cần ban hành và thực hiện nghiêm quy chế làm việc, đổi mới phương pháp lãnh đạo theo hướng dân chủ, khách quan, khoa học; nâng cao trách nhiệm, khuyến khích tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Các tỉnh ủy viên cần đi cơ sở thường xuyên để nắm bắt thực tiễn và phản ánh kịp thời nguyện vọng, nhu cầu chính đáng của nhân dân.
Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, giúp việc của tỉnh ủy, bảo đảm thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, tránh chồng chéo, phát huy tốt vai trò tham mưu hoạch định và phản biện. Việc cụ thể hóa tiêu chuẩn cán bộ từng cơ quan tham mưu, giúp việc phải sát yêu cầu thực tiễn, có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực công tác tham mưu. Từ đó có quy hoạch, đào tạo, sắp xếp và sử dụng cán bộ hiệu quả, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu chất lượng, phục vụ tốt cho phát triển nông nghiệp bền vững của từng địa phương trong vùng.
Năm là, lãnh đạo phát huy vai trò của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các tỉnh ở ĐBSCL trong phát triển nông nghiệp bền vững.
Để phát huy hiệu quả mô hình chính quyền địa phương hai cấp trong phát triển nông nghiệp bền vững, các tỉnh ủy cần tập trung lãnh đạo việc sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền tinh gọn, hiệu quả, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp. Đồng thời, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường thanh tra, kiểm tra, chuyển đổi số trong quản lý và nâng cao trách nhiệm đội ngũ cán bộ cơ sở. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp bền vững; cải tiến phương thức hoạt động theo hướng gần dân, sát cơ sở; thúc đẩy liên kết cộng đồng và nâng cao năng lực hội nhập cho người dân nông thôn. Hội Nông dân cần được tăng cường vai trò trong hỗ trợ nông dân tiếp cận thị trường, đào tạo nghề, phát triển sản xuất theo mô hình kinh tế tập thể. Đồng thời, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cần thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội để các chính sách phát triển nông nghiệp phù hợp thực tiễn và đảm bảo quyền lợi chính đáng, hợp pháp của nông dân.
Sáu là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành nông nghiệp ở các tỉnh ĐBSCL
Các tỉnh trong vùng cần đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn và cấp chứng chỉ nghề cho lao động trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nhằm thay đổi tư duy, nâng cao nhận thức về khoa học kỹ thuật, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, kiểm soát dịch bệnh và bảo vệ môi trường. Đồng thời, cần nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật, nhất là ở cơ sở để tăng hiệu quả tham mưu và phối hợp trong phát triển nông nghiệp bền vững. Việc xây dựng đề án đào tạo chuyên sâu cho cán bộ, chuyên gia và nông dân là cần thiết để hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực nông nghiệp.
Các tỉnh ĐBSCL cần vận dụng linh hoạt chính sách hiện hành để đề xuất cơ chế đãi ngộ, đồng thời tăng cường hợp tác với các viện, trường và chuyên gia trong và ngoài nước nhằm chuyển giao công nghệ. Chú trọng nâng cao chất lượng và đổi mới hoạt động của đội ngũ khuyến nông để đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Bảy là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; lãnh đạo sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chương trình của tỉnh uỷ về phát triển nông nghiệp bền vững
Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp bền vững cần được quan tâm lãnh đạo. Các tỉnh ủy cần tăng cường chỉ đạo các cấp ủy cơ sở, đặc biệt là cấp xã và các cơ quan liên quan chủ động triển khai kiểm tra, giám sát thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm. Việc phối hợp giữa cơ quan kiểm tra đảng và cơ quan thanh tra nhà nước cùng sự giám sát xã hội từ các tổ chức và người dân sẽ góp phần nâng cao tính khách quan, hiệu quả. Ngoài ra, tỉnh ủy cần đẩy mạnh sơ kết, tổng kết thực tiễn từ cấp xã để đúc rút kinh nghiệm, làm cơ sở đề xuất giải pháp phù hợp trong lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững giai đoạn tiếp theo.
3. Kết luận
Thời gian qua, các tỉnh ủy ở ĐBSCL đã quan tâm lãnh đạo phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững thông qua chuyển đổi, tái cơ cấu ngành nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, phát triển nông nghiệp sinh thái, hữu cơ và thích ứng với biến đổi khí hậu. Để tăng cường sự lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững của các tỉnh ủy ở ĐBSCL trong thời gian tới cần thực hiện các giải pháp nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ viên, cán bộ, đảng viên và nhân dân về tăng cường lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững; đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy; nâng cao chất lượng tỉnh ủy, các cơ quan tham mưu, giúp việc tỉnh ủy đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phát triển nông nghiệp bền vững;… nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân.
_________________
Ngày nhận bài: 23-7-2025; Ngày bình duyệt: 10-8-2025; Ngày quyết định đăng: 13-8-2025.
(1) Văn phòng Chính phủ: Thông tin báo chí, Hội nghị công bố “Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030”, ngày 21-6-2022.