(LLCT) - Trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm” thách thức đối với các nền kinh tế đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Bài viết làm rõ mối quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội trong thực hiện chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất kiến nghị giải quyết mối quan hệ giữa ba chủ thể trong thực hiện chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo nhằm giảm nguy cơ “giải công nghiệp hóa sớm” ở Việt Nam.
TS HOÀNG NGỌC HẢI
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
“Giải công nghiệp hóa sớm” là hiện tượng không duy trì được sự cải thiện về dài hạn năng suất lao động của nền kinh tế trong khi quá trình thực hiện công nghiệp hóa chưa hoàn thành những nội dung trọng tâm để trở thành một nước công nghiệp. Đây là một thách thức tiềm ẩn đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta trong những năm tới.
Để vượt qua được thách thức này, cần thực hiện bứt phá về chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo nhằm có được năng suất cao trong khi đẩy mạnh thực hiện CNH, HĐH nền kinh tế trước áp lực nhiều chiều của bối cảnh mới.
Giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa ba chủ thể chính trong nền kinh tế là Nhà nước - thị trường - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng sẽ góp phần làm cho chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo đạt được những kết quả tối ưu nhất.
1. Trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm” và những thách thức đặt ra đối với nền kinh tế đang phát triển
Cách mạng khoa học - công nghệ thế giới những thập niên đầu thế kỷ XXI phát triển với xu hướng mang tính gia tốc đang đặt ra rất nhiều thách thức đối với tiến trình công nghiệp hóa của các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Một trong những thách thức đó là nền kinh tế có thể rơi vào trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm”.
Đây là một trong những nguyên do làm cho bẫy thu nhập trung bình luôn rình rập đe dọa các quốc gia thực hiện công nghiệp hóa mà chưa đi đến đích như xác định. Cùng với bẫy thu nhập trung trình, “giải công nghiệp hóa sớm” được coi như cặp bài trùng tạo nên những rào cản, trở ngại cho sự bứt phá của nền kinh tế khi thực hiện công nghiệp hóa trong áp lực phải liên tục bám đuổi với khu vực và thế giới. Khi GDP bình quân người dân tăng lên và đất nước dần bước vào giai đoạn già hóa dân số, lợi thế về nhân công giá rẻ không còn, các doanh nghiệp FDI sẽ dịch chuyển sang các quốc gia có giá nhân công cạnh tranh hơn hoặc có hệ thống cung ứng tốt hơn, trong khi các doanh nghiệp nội địa vẫn chưa học hỏi, sáng tạo được các công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại, sẽ dẫn đến hiện tượng “giải công nghiệp hóa sớm”.
Sự suy giảm các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo sẽ kéo theo sự suy giảm các ngành dịch vụ, tiêu dùng và gia tăng nạn thất nghiệp, đồng thời cũng sẽ kéo theo nhiều hệ lụy về mặt an sinh xã hội. Từ đó, đất nước sẽ có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp.
“Giải công nghiệp hóa sớm” ở những quốc gia chưa thực hiện xong công nghiệp hóa khác về tính chất so với “giải công nghiệp hóa” ở các quốc gia đã thực hiện công nghiệp hóa thành công. Hiện tượng này ở những nước đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa làm cho quá trình rút ngắn sự tụt hậu của các nước đang phát triển càng trở nên khó khăn hơn rất nhiều.
Hiện tượng “giải công nghiệp hóa sớm” đối với quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển đặt ra các thách thức sau:
Thứ nhất, làm suy giảm động lực và vai trò của các nguồn lực truyền thống trong thúc đẩy năng suất của nền kinh tế
Khi nền kinh tế rơi vào trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm” sẽ làm năng suất lao động rất khó cải thiện. Sở dĩ có hiện tượng này là do nền kinh tế không hình thành được các ngành công nghiệp nội sinh đủ trưởng thành để tạo ra động lực cho tăng trưởng dài hạn; tăng trưởng kinh tế cũng như nguồn lực chịu sự phụ thuộc lớn vào khu vực chủ thể nước ngoài.
Tình hình đó dẫn tới khả năng cải thiện mang tính bứt phá cơ cấu toàn bộ nền kinh tế để có thể vượt bẫy thu nhập trung bình trở nên khó khăn hơn. Đến lượt nó, bẫy thu nhập trung bình lại tạo ra rào cản cho việc tập trung các nguồn lực để có thể hình thành khu vực công nghiệp động lực, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo nội sinh.
Vòng luẩn quẩn này tạo ra thách thức mang tính nguy cơ, vừa làm xói mòn động lực công nghiệp của nền kinh tế do vừa gây ra sự cản trở đối với quá trình thực hiện các mục tiêu công nghiệp hóa, vừa nhanh chóng làm suy giảm vai trò các nguồn lực truyền thống đối với quá trình nâng cao năng suất lao động trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Sự xuất hiện không ngừng của các công nghệ mới đặt ra áp lực của sự đổi mới công nghệ và yêu cầu tăng năng suất. Vai trò của các nguồn lực truyền thống (vốn, lao động giá rẻ, tài nguyên) với lợi thế ngắn hạn cho thực hiện công nghiệp hóa đi sau đã bị mất đi rất nhanh vai trò của chúng trong việc góp phần thúc đẩy tăng năng suất xã hội.
Hệ quả là, khả năng bứt phá vượt nhanh ra khỏi bẫy thu nhập trung bình là khó khăn nếu các nguồn lực truyền thống không được phát huy một cách hiệu quả trong quá trình công nghiệp hóa giai đoạn tích lũy ban đầu. Khi xuất hiện tình huống như vậy một cách điển hình, nếu không có biện pháp khắc phục, nền kinh tế sẽ rơi sâu hơn nữa vào trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm”.
Thứ hai, làm phân rã sâu khoảng cách phát triển trước áp lực của tiến bộ công nghệ
Sự phát triển công nghệ luôn được coi là động lực dài hạn cho cơ hội tăng năng suất và cải thiện trình độ phát triển công nghiệp. Tuy nhiên, đối với một nền kinh tế rơi vào trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm” thì khả năng có được những công nghệ mới mang tính đột phá và nền tảng là rất thấp.
Lý do là, khi thực hiện công nghiệp hóa chưa thành công hoặc quá trình công nghiệp hóa chưa tới đích, chưa tạo ra những động lực trụ cột về công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo nội sinh, sẽ đồng nghĩa với khả năng cải thiện trình độ công nghệ nền tảng là rất thấp.
Thực tế này đã từng diễn ra rất rõ ở nhiều quốc gia khu vực Nam Mỹ trước năm 2000, thậm chí cả hiện nay. Trong khi đó, trình độ công nghệ lại không ngừng được nâng lên ở các quốc gia đã thực hiện công nghiệp hóa thành công. Thực tế, công nghệ hiện đại hơn chỉ có thể hình thành trên nền tảng công nghệ hiện đại đã có. Trong phát triển về dài hạn, khó và hiếm có thể có nền tảng công nghiệp và công nghệ nội sinh mới khi nền kinh tế thiếu đi tiền đề nền tảng công nghiệp, công nghệ đã phát triển ở trình độ nhất định.
Vì vậy, khi rơi vào trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm”, cơ hội rút ngắn khoảng cách phát triển sẽ bị đẩy sâu vào trạng thái phân rã cả chiều rộng cùng chiều sâu. Việc bứt phá khỏi áp lực phân rã về khoảng cách phát triển trong trường hợp như vậy tối ưu nhất phải bằng sự bứt phá về nền tảng công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đây là một thách thức do việc rơi vào trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm” sẽ không tạo ra tiền đề cho sự bứt phá như thế.
Thứ ba, làm méo mó quá trình phân bổ nguồn lực, phân phối thành quả phát triển
Khi rơi vào trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm”, những mục tiêu công nghiệp hóa sẽ khó đạt được và vạch đích thời gian của quá trình công nghiệp hóa sẽ bị kéo dài hơn, thậm chí không thực hiện công nghiệp hóa thành công. Hệ quả là việc giải quyết mối quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội rất dễ trở nên lúng túng trong hoạch định chiến lược phát triển chung. Áp lực giải quyết các vấn đề xã hội gia tăng do “giải công nghiệp hóa” sớm đòi hỏi nhiều nguồn lực hơn, trong khi năng lực nội sinh của nền kinh tế có được do tăng năng suất lại khó được cải thiện.
Thế lưỡng nan này đặt ra áp lực cho việc xác định đúng vai trò của Nhà nước, phải tìm kiếm những phương thức duy trì nhịp độ tăng trưởng hoặc cải thiện phân bổ thành quả phát triển cho các thành viên trong xã hội. Trong khi đó, sự lựa chọn phân bổ nguồn lực từ phía Nhà nước có thể mang tính chủ quan. Sự chủ quan như vậy nếu không được cân bằng bởi tính minh bạch và trách nhiệm giải trình sẽ rất dễ dẫn tới duy ý chí. Sự phân bổ nguồn lực mang tính duy ý chí nhằm khắc phục các khó khăn về cải thiện tăng năng suất trước mắt sẽ dẫn tới méo mó và từ đó lại làm tăng thêm khó khăn cho sự cải thiện nhịp độ tăng trưởng dài hạn.
Tương tự, đối với việc phân bổ các thành quả phát triển, quá trình giải quyết các quan hệ lợi ích nhằm đạt các mục tiêu xã hội để tạo sự ổn định chính trị thường đòi hỏi sự hoàn thiện và đồng bộ của hệ thống thể chế. Trong khi đó, trên thực tế, trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm” dẫn tới nhiều mâu thuẫn về xã hội, nhất là các mâu thuẫn về việc làm và phân hóa thu nhập giữa các nhóm dân số; cơ hội thụ hưởng các thành quả của sự phát triển, như y tế, giáo dục dễ trở nên giãn cách giữa các nhóm dân cư, các cộng đồng và địa phương, vùng, miền. Trong tình huống như vậy, nếu không thực hiện tốt quá trình quản trị phát triển xã hội thì sự “giải công nghiệp hóa” lại đẩy xã hội đến sự méo mó trong phân bổ thành quả phát triển. Đây là thách thức rất rõ nếu để nền kinh tế rơi vào trạng thái giải công nghiệp hóa sớm.
2. Mối quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội trong thực hiện chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo ở Việt Nam
Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là mối quan hệ giữa nhân tố chủ quan là vai trò, chức năng quản lý, điều hành của Nhà nước, với nhân tố khách quan là các quy luật vận động của thị trường và yếu tố xã hội, nhằm xác định sự “phân công” hợp lý giữa Nhà nước, thị trường và tác động của các yếu tố xã hội trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong mối quan hệ này, vừa có sự thống nhất trong chỉnh thể, vừa có sự mâu thuẫn giữa ba thành tố nêu trên. Sự thống nhất được thể hiện ở việc thị trường muốn vận hành đầy đủ, thông suốt và giảm thiểu những đổ vỡ tự phát, xã hội muốn bình ổn đều cần có sự can thiệp, điều hành đúng mức của Nhà nước.
Ngược lại, mọi mặt đời sống của đất nước muốn có sự phát triển năng động, mạnh mẽ, Nhà nước muốn hoạt động hiệu quả cần chú trọng đến quy luật vận động khách quan của thị trường và cần những yếu tố thuận lợi, thuận chiều và cùng chiều trong xã hội.
Sự mẫu thuẫn trong mối quan hệ này do các yếu tố: Một là, do thị trường tự do không phải lực lượng vạn năng, trên thực tế, nền kinh tế thị trường không phải là nền kinh tế hoàn hảo, tối ưu mà ngay trong bản thân nó cũng vốn có những mặt trái, những thất bại không mong muốn, từ đó gây ra các đổ vỡ, xáo trộn đối với kinh tế - xã hội. Hai là, nếu đời sống xã hội có những bất ổn sẽ tác động tiêu cực đến thị trường cũng như đối với sự quản lý của Nhà nước. Ba là, nếu Nhà nước buông lỏng hoặc can thiệp không đủ mức đối với thị trường và xã hội thì sẽ khó sửa chữa được những thất bại của thị trường, để tồn đọng những bức xúc, mâu thuẫn trong xã hội, sớm muộn cũng sẽ dẫn tới mất cân đối cơ cấu kinh tế vĩ mô, phân phối lưu thông không được kiểm soát, mất ổn định xã hội, đổ vỡ, khủng hoảng. Ngược lại, nếu sự can thiệp của Nhà nước quá sâu, không tuân theo các quy luật khách quan sẽ bó hẹp, thậm chí bóp méo thị trường, dẫn tới đình trệ sản xuất, kinh doanh; xã hội nhiều mâu thuẫn, xung đột khó giải quyết.
Xử lý mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội tức là tìm ra mức độ, nội dung, liều lượng gắn kết, tác động giữa ba chủ thể để vừa bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, vừa bảo đảm được các mục tiêu về chính trị, văn hóa, xã hội mà Nhà nước đề ra.
Việc xử lý mối quan hệ này có vai trò quan trọng của Nhà nước, thực hiện thông qua việc nhận diện bản chất, mức độ của mối quan hệ và từ đó đưa ra các cơ chế, chính sách, giải pháp xử lý mối quan hệ này một cách phù hợp, đúng đắn...
Với những thành tựu phát triển của gần bốn thập niên vừa qua của Việt Nam, tiềm năng và sức mạnh nội lực, trình độ phát triển của nền kinh tế đã được cải thiện mang tính bước ngoặt. Tuy nhiên, quá trình CNH, HĐH của Việt Nam chưa đạt được như kỳ vọng. Điều này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: Năng lực và trình độ công nghệ của nền kinh tế nhìn chung còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỷ lệ nội địa hóa thấp, hiệu quả tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế(1).
Sau hơn 35 năm thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH theo tư duy đổi mới, với nhiều cơ hội và nguồn lực đã được phát huy và đưa vào khai thác cho quá trình công nghiệp hóa ở chặng tích lũy ban đầu, năng suất lao động có sự cải thiện song còn hạn chế. Phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH, thiếu bền vững; chưa tạo ra được ngành công nghiệp trong nước có năng lực cạnh tranh cao, chưa có ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò dẫn dắt(2).
Đây là những dấu hiệu cảnh báo sớm, mặc dù chưa điển hình song nếu không có những bứt phá mới, rất có thể Việt Nam sẽ rơi vào trạng thái giải công nghiệp hóa sớm.
Như vậy, bên cạnh việc tìm kiếm những giải pháp nhằm vượt bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần nỗ lực tránh một thách thức ở tầng sâu hơn cho sự phát triển dài hạn của mình, đó chính là việc không để nền kinh tế rơi vào trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm”.
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, một trong những phương thức tối ưu cho nỗ lực vượt khó như vậy là thực hiện chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo trên cơ sở nhận diện được mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế là Nhà nước - thị trường - xã hội.
Chính sách công nghiệp được hiểu là tổng thể những biện pháp được thực hiện bởi Nhà nước nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn về phân bổ nguồn lực cũng như tạo ra động lực mới cho các lĩnh vực công nghiệp trụ cột của nền kinh tế, từ đó đưa đến năng suất được cải thiện liên tục về dài hạn và từng bước xác lập cơ cấu công nghiệp chế biến, chế tạo hiện đại, đóng vai trò động lực dài hạn của nền kinh tế, có khả năng thích ứng với sự phát triển của thị trường thế giới và rút ngắn được trình độ phát triển.
Những biện pháp như vậy yêu cầu: Tầm nhìn tổng thể hoặc định hướng chiến lược mà Nhà nước muốn đặt ra; Quá trình thiết lập đối thoại với các chủ thể nội sinh chính của nền công nghiệp nền tảng, động lực, hiện đại; Sự đồng bộ của thể chế được áp dụng để tạo ra sự phát triển bứt phá về năng suất lao động xã hội.
Cơ sở lý thuyết cho chính sách công nghiệp xuất phát từ tiếp cận thực tế rằng, thị trường không tạo ra sự tối ưu trong xác lập chiến lược phát triển và các ngành chế biến, chế tạo thực sự có vai trò quan trọng trong thúc đẩy hình thành nền tảng công nghiệp của quốc gia thực hiện công nghiệp hóa.
Cách tiếp cận lý thuyết về vai trò khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn đúng đối với các nước đang phát triển, ngay cả hiện nay trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khi một quốc gia thiếu đi nền tảng công nghiệp cơ bản, rất khó có thể xác lập được sự phát triển bền vững của khu vực dịch vụ phái sinh. Dù khu vực dịch vụ và kinh tế số đang rất có ưu thế. Cho dù như vậy, những nền tảng phần cứng, hạ tầng công nghệ vẫn luôn là thành tựu của công nghiệp chế biến, chế tạo cơ bản, nội sinh. Vì vậy, không thể xem nhẹ vai trò nền tảng động lực dài hạn của công nghiệp chế biến, chế tạo đối với một quốc gia đang thực hiện công nghiệp hóa như Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, khi cuộc đua công nghệ và sự hội tụ vai trò độc quyền công nghệ được thâu tóm bởi các tổ chức độc quyền trên thế giới, các chuỗi giá trị được thúc đẩy và chi phối bởi các chủ thể độc quyền lớn, nắm giữ các phân khúc có giá trị gia tăng cao, việc xác lập nền tảng nghiệp chế biến, chế tạo gắn với công nghệ nội sinh và hướng mạnh đến sự hiện đại hóa lại càng trở nên đúng đắn.
Sẽ là ảo tưởng khi muốn công nghiệp hóa thành công mà không dựa trên sự xác lập được những nền tảng công nghiệp cơ bản của nền kinh tế. Do đó, để tránh rơi vào trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm”, cách tiếp cận chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo là tối ưu đối với quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam những năm tới, trước bối cảnh mới hiện nay.
Đặc trưng của chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo thể hiện sự kết hợp của cách tiếp cận chính sách công nghiệp thúc đẩy và chính sách công nghiệp dựa trên thị trường.
Với cách tiếp cận chính sách công nghiệp thúc đẩy, yêu cầu đặt ra trước hết, Nhà nước cần có tư duy lớn, dài hạn, tổng hợp. Từ đó, xây dựng các biện pháp không ngừng tháo gỡ những điểm nghẽn về thể chế cũng như cách thức phân bổ nguồn lực cho phát triển công nghiệp nội sinh, hướng hiện đại hóa.
Mục đích của cách tiếp cận thúc đẩy này là nhanh chóng tạo điều kiện để các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nội sinh trong nền kinh tế dịch chuyển sang những hoạt động năng động mới, sáng tạo và có công nghệ phức tạp hơn. Một số lĩnh vực công nghệ rất mới so với những sản phẩm truyền thống mang tính chuyên môn hóa và đang có ưu thế song thiếu tiềm năng dài hạn. Nghĩa là thực hiện chuyển dịch nhanh những ngành công nghiệp thâm dụng vốn, lao động, tài nguyên đang phát huy tốt cho gia tăng quy mô song không có triển vọng trong dài hạn sang những ngành công nghiệp dựa trên hiện đại hóa và đuổi kịp hiện đại hóa.
Theo cách như vậy sẽ xuất hiện những lĩnh vực cần có đầu tư mạo hiểm. Những lĩnh vực đầu tư mạo hiểm này cần có vai trò tư duy lớn và nguồn lực đủ mạnh từ Nhà nước thực hiện. Khi đó, Nhà nước đóng vai trò nhân tố “bà đỡ” cung cấp tài chính cần thiết trong quá trình dịch chuyển của doanh nghiệp nội sinh và hỗ trợ khởi nghiệp thông qua đào tạo, tiếp thị thị trường và xúc tiến tham gia chuỗi giá trị ở phân khúc có giá trị gia tăng cao hơn.
Kinh nghiệm chính sách công nghiệp của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ II và Hàn Quốc những năm 1970 là minh chứng rất rõ cho việc thực hiện chính sách công nghiệp theo cách tiếp cận thúc đẩy.
Với cách tiếp cận dựa trên thị trường, chính sách công nghiệp được hình thành dựa trên giả định những thất bại của thị trường. Theo đó, Nhà nước được xem là chủ thể khắc phục những thất bại của thị trường thông qua việc điều chỉnh các ngoại ứng hoặc cung cấp thông tin cũng như kết cấu hạ tầng hiện đại mà doanh nghiệp cần để vươn lên chiếm lĩnh mũi nhọn hiện đại hoặc đỉnh cao công nghệ nội sinh. Mặc dù vai trò này là khiêm tốn song sẽ có ý nghĩa hơn nếu nhà nước giải thích các thất bại thị trường ở phạm vi rộng hơn. Ví dụ: cung cấp tín dụng nếu thị trường tài chính e ngại rủi ro, hay đào tạo nhân lực chất lượng cao, sáng tạo nếu doanh nghiệp công nghiệp nội sinh đầu tư không đúng mức do lo ngại sự thất thoát nhân lực. Dựa trên cách tiếp cận này, Nhà nước kiến tạo sẽ thực hiện khắc phục các thất bại của thị trường để tạo ra tiền đề cho sự hình thành năng lực nội sinh, nâng cấp trình độ công nghệ hướng vào đổi mới sáng tạo theo nguyên tắc tương hợp với thị trường. Trong khi để các doanh nghiệp tự quyết định con đường phát triển, Nhà nước phát huy vai trò của mình tạo môi trường để tất cả các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi thất bại thị trường có thể nhận được những lợi ích nhờ khai thác được những kết cấu hạ tầng hoặc nguồn nhân lực sáng tạo do khu vực sử dụng ngân sách nhà nước tạo ra.
Mỗi cách tiếp cận chính sách công nghiệp nêu trên đều có mặt ưu điểm và hạn chế. Hạn chế của chính sách công nghiệp tiếp cận thúc đẩy thì có thể dẫn tới những lợi ích mang tính thân hữu khi Nhà nước thực hiện điều chỉnh nguồn lực nhằm tạo ra năng lực sáng tạo nội sinh của doanh nghiệp. Cách tiếp cận chính sách công nghiệp dựa trên thị trường khắc phục được hạn chế nêu trên. Tuy vậy, cách tiếp cận chính sách công nghiệp dựa trên thị trường lại có thể làm phát sinh hiện tượng nguồn lực rơi vào chủ thể doanh nghiệp nước ngoài nếu nền kinh tế dựa nhiều vào động lực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Trong trường hợp như vậy, năng lực sáng tạo nội sinh không được hình thành như mong muốn.
Do đó, với điều kiện Việt Nam hiện nay, khi nền tảng công nghiệp nội sinh yếu, động lực xuất khẩu đang phụ thuộc mạnh vào khu vực đầu tư nước ngoài, việc xây dựng chính sách công nghiệp tiếp cận kết hợp thúc đẩy và dựa trên thị trường định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo là thích hợp. Cách tiếp cận kết hợp vừa phát huy được vai trò tư duy lớn, dài hạn, nhất quán và rõ mục tiêu hướng đích từ phía nhà nước, đồng thời phát huy được vai trò của định hướng thị trường trong thực hiện xây dựng năng lực công nghệ, công nghiệp nội sinh bảo đảm tiền đề cho tăng trưởng dài hạn. Trên cơ sở cách tiếp cận thị trường, làm cho nền kinh tế gắn kết được với thị trường thế giới, do đó, công nghiệp hóa hướng tới đổi mới sáng tạo gắn với bối cảnh phát triển công nghệ thế giới. Đồng thời, từ cách tiếp cận thúc đẩy từ phía Nhà nước giúp cho quá trình điều tiết nguồn lực có kế hoạch và hướng đích rõ hơn.
Chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo kết hợp vai trò Nhà nước, thị trường như trên cho phép tạo ra động lực đối thoại giữa Nhà nước với doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước luôn có thông tin đúng từ phía chủ thể thực hiện nhiệm vụ đổi mới sáng tạo nội sinh là các doanh nghiệp cả khu vực nhà nước cũng như khu vực tư nhân trong nước. Từ những đối thoại thông tin đó, những điểm nghẽn được tháo gỡ chung để các doanh nghiệp có môi trường khởi nghiệp mới hoặc sáng tạo công nghệ, gia tăng đầu tư nguồn lực vào công nghệ để có tiềm năng năng suất dài hạn. Kết quả liên tục của quá trình này sẽ đem lại động lực chống lại khuynh hướng giải công nghiệp hóa sớm của nền kinh tế.
Tương tự, việc phát huy vai trò Nhà nước sẽ giải quyết được những xu hướng lớn của toàn bộ nền kinh tế như một chỉnh thể gắn với mục tiêu công nghiệp hóa xác định hướng đích rõ ràng. Những khát vọng phát triển quốc gia liên quan đến tham vọng phát triển gắn với sự điều hành của Nhà nước thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc các kênh nguồn lực định hướng tầm nhìn để các chủ thể đủ năng lực có thể được đặt hàng thực hiện những nhiệm vụ công nghệ cũng như tạo ra nền tảng công nghệ để dẫn dắt nền kinh tế. Các doanh nghiệp mạo hiểm hoàn toàn mang tính nội sinh, thúc đẩy tiềm năng sáng tạo mới có định hướng lan tỏa cho việc tạo ra nền công nghiệp Việt Nam. Công việc này cần có sự phát huy vai trò của nguồn lực nhà nước. Kinh nghiệm thành công của Trung Quốc trong khía cạnh này là minh chứng cho việc phải có vai trò rất lớn của nhà nước trong thúc đẩy sự phát triển công nghệ nội sinh dẫn dắt nền kinh tế hướng tới đổi mới sáng tạo.
3. Giải quyết mối quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội trong thực hiện chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo nhằm tránh thách thức “giải công nghiệp hóa sớm” ở Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, với tình hình Việt Nam hiện nay, để vượt bẫy thu nhập trung bình cũng như tránh được thách thức ở tầng sâu hơn cho sự phát triển dài hạn là việc không để nền kinh tế rơi vào trạng thái “giải công nghiệp hóa sớm” thì thực hiện chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo là lựa chọn tối ưu. Tuy nhiên, để lựa chọn này phát huy được tối đa hiệu quả thì cần thiết phải xử lý một cách hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội trong thực hiện chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo nhằm tránh thách thức “giải công nghiệp hóa sớm”.
Đại hội XIII của Đảng đã thể hiện tiếp cận chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo kết hợp Nhà nước và thị trường, chủ trương điều chỉnh, bổ sung nâng cao chất lượng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nền kinh tế, các ngành, các lĩnh vực, các vùng phù hợp với thực tiễn đất nước và trình độ phát triển khoa học - công nghệ hiện đại trên thế giới. Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghệ hiện đại; phát triển một số sản phẩm chủ lực có thương hiệu mạnh, có uy tín trong khu vực và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số. Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh. Cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số, tập trung phát triển những ngành công nghiệp nền tảng, nhất là công nghiệp cơ khí, chế tạo, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường(3). Với cách tiếp cận này có thể khắc phục được thách thức rơi vào trạng thái giải công nghiệp hóa sớm.
Thực tiễn các nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy, trong nền kinh tế thường xuyên diễn ra mối quan hệ giữa bộ máy quản trị quốc gia; cộng đồng các doanh nghiệp; các hộ gia đình, người dân và các tổ chức nghề nghiệp sáng tạo (giáo dục, khoa học - công nghệ). Mỗi chủ thể trong mối quan hệ này có chức năng, mục tiêu hoạt động khác nhau với những mong muốn về lợi ích khác nhau. Một xã hội muốn phát triển theo hướng thị trường thì cần xử lý hài hòa lợi ích giữa các chủ thể nói trên. Bởi lẽ, nếu quá nhấn mạnh thị trường sẽ tạo ra một xã hội chỉ vì lợi lộc mà bỏ qua tất cả những giá trị nhân văn của cuộc sống...; nếu quá nhấn mạnh đến Nhà nước thì sẽ đưa Nhà nước đến chỗ ôm đồm, làm tất cả dẫn đến quá sức, còn nếu quá nhấn mạnh đến lợi ích của người dân thì đó là điều không thể làm được, bởi lẽ, khi đó xã hội sẽ không có đủ của cải để đáp ứng mong muốn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng luôn được đẩy lên của người dân, vì tiêu dùng không thể vượt quá khả năng của cải hiện có.
Trong ba chủ thể đó thì doanh nghiệp và Nhà nước có lợi thế hơn, có thể thấy rằng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường thì Nhà nước và doanh nghiệp có mối quan hệ gắn bó trực tiếp. Về bản chất, đây là mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với hệ thống doanh nghiệp, tiêu biểu cho mối quan hệ cơ bản của quá trình phát triển kinh tế và chính trị của một quốc gia.
Hơn nữa, họ có lợi nhuận và quyền lực. Điều đó có thể dẫn đến tình trạng lợi dụng lợi thế đó mà doanh nghiệp và Nhà nước cấu kết với nhau, nảy sinh “quan hệ hậu trường” dẫn đến lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, tham nhũng... làm tổn hại đến lợi ích của người dân, của đất nước. Vì vậy, cần có thể chế kinh tế để bảo đảm hài hòa lợi ích của ba chủ thể này trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện đại và thực hiện chính sách công nghiệp định hướng nền kinh tế đổi mới sáng tạo để gia tăng năng lực nội sinh. Đây cũng có thể được coi là ba trụ cột trực tiếp của một nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo. Khi thiếu đi sức sáng tạo, sự đổi mới của bất kỳ trụ cột nào trong ba nhóm chủ thể cơ bản nêu trên sẽ làm trì trệ, xói mòn, thậm chí suy yếu tiềm năng phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Vì lý do đó, muốn tránh “giải công nghiệp hóa sớm” dựa trên chính sách công nghiệp định hướng đổi mới sáng tạo cần phải xuất phát từ việc giải phóng năng lực đổi mới sáng tạo tổng hợp của cả cộng đồng doanh nghiệp, người dân, tổ chức nghề nghiệp và bộ máy quản trị quốc gia.
Trong đó, chính sách công nghiệp định hướng đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp luôn có tác động tích cực, trực tiếp đối với nâng cao năng suất, sức cạnh tranh, tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho bản thân doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp đó. Hơn nữa, hoạt động đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp còn góp phần sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả của hội nhập, bảo vệ lợi ích quốc gia, củng cố an ninh - quốc phòng.
Sức sáng tạo của các hộ gia đình, người dân, các tổ chức nghề nghiệp (giáo dục, khoa học - công nghệ...) là rộng lớn, đa dạng. Yêu cầu bảo đảm sinh kế bền vững và duy trì bản sắc đã quy định, đòi hỏi từng người dân, mỗi hộ gia đình luôn không ngừng tìm kiếm cách thức tư duy và sử dụng những biện pháp tối ưu trong giải quyết các vấn đề đặt ra sát thực với cuộc sống hằng ngày cũng như giữa các thế hệ người.
Tương tự như vậy, xuất phát từ yêu cầu về chức năng nghề nghiệp do xã hội phân công, các tổ chức nghề nghiệp mang tính đổi mới sáng tạo chuyên nghiệp có tác động rất tích cực tới toàn bộ nền kinh tế thông qua cung ứng tri thức, nguồn nhân lực có kỹ năng, công nghệ, tư liệu lao động mới. Đổi mới sáng tạo của các hộ gia đình, người dân, các tổ chức nghề nghiệp góp phần tạo lập nền tảng phổ biến cho sự ổn định chung của đất nước.
Cùng với đó, bộ máy quản trị quốc gia mà nòng cốt là hệ thống chính trị cũng luôn cần và phải có sự đổi mới sáng tạo. Quản trị quốc gia là sứ mệnh, trọng trách đặc biệt được nhân dân giao phó, ủy thác cho. Chất lượng hoạt động của bộ máy quản trị quốc gia liên quan trực tiếp đến vận mệnh, sự sinh tồn và không gian sinh tồn của nhân dân, của bản thân chế độ chính trị, vị thế, tiền đồ, hình ảnh của quốc gia trên bản đồ thế giới. Để đảm đương tốt trọng trách nhân dân giao phó và ủy thác, đòi hỏi bộ máy quản trị quốc gia cũng phải không ngừng đổi mới sáng tạo.
Trong mối quan hệ giữa vai trò của ba nhóm chủ thể cơ bản nêu trên, mặc dù không thể xem nhẹ vai trò đổi mới sáng tạo của bất kỳ nhóm chủ thể nào, song trong bối cảnh hội nhập quốc tế và xu thế phát triển chung của thế giới ngày nay, sự đổi mới sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp có ý nghĩa là tiền đề trực tiếp nhất, tác động phổ biến nhất, quyết định đến động lực tăng trưởng, là tiềm năng phát triển dài hạn của toàn bộ nền kinh tế. Chính sách công nghiệp định hướng đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp chi phối, kéo theo yêu cầu đổi mới sáng tạo trong dân cư, các tổ chức nghề nghiệp và bộ máy quản trị quốc gia. Do đó, củng cố và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp luôn là giải pháp mang tính đột phá, có sức lan tỏa sâu sắc đến phát triển kinh tế dựa trên nền tảng đổi mới sáng tạo trong bối cảnh mới.
Xét về động lực, suy đến cùng, lợi ích là động lực trực tiếp, tác động sâu sắc nhất để dẫn tới các hoạt động đổi mới sáng tạo của các chủ thể. Tuy nhiên, thực tế cũng có trường hợp, vì động cơ lợi ích mà có thể trì hoãn sự đổi mới sáng tạo. Đây là những trường hợp cần phải loại trừ dần.
Về yếu tố tác động tới động lực của đổi mới sáng tạo, ứng với mỗi nhóm chủ thể trong nền kinh tế mà có các nhóm yếu tố khác nhau. Mặc dù vậy, ngoài những yếu tố riêng, đặc trưng, tác động tới đổi mới sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp, các hộ gia đình, người dân và các tổ chức nghề nghiệp hay bộ máy quản trị quốc gia, có yếu tố chung tác động tới động lực đổi mới sáng tạo của cả ba nhóm chủ thể này là thể chế. Trong đó, thể chế do bộ máy quản trị quốc gia hoạch định và tổ chức thực hiện là một trong những yếu tố chính tác động tới động lực của tổng thể các nhóm chủ thể của nền kinh tế dựa trên nền tảng sáng tạo.
Với ý nghĩa như vậy, thực chất việc hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế dựa trên chính sách công nghiệp hướng tới nền kinh tế đổi mới sáng tạo thể hiện ở nội dung hoàn thiện thể chế tạo động lực cho hoạt động đổi mới sáng tạo của các trụ cột cơ bản là cộng đồng doanh nghiệp, người dân và bộ máy quản trị quốc gia.
Đối với khu vực doanh nghiệp, hệ thống thể chế thúc đẩy đổi mới sáng tạo của khu vực này có thể được nhận diện dưới biểu hiện của ba thành tố chủ yếu, đó là: thể chế cho các doanh nghiệp tiếp cận cơ hội và nguồn lực; thể chế cho việc giải quyết các quan hệ lợi ích của bản thân các doanh nghiệp và thể chế cho việc tiếp cận thị trường, liên kết mạng lưới giữa các doanh nghiệp nhằm tạo sức mạnh cộng hưởng trong hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, đối với nền kinh tế ở trình độ phát triển chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì hai nhóm thể chế tiếp cận nguồn lực (tài chính, thông tin, dữ liệu lớn, mặt bằng, nền tảng số...) và tiếp cận thị trường (thuế, hải quan, chỉ dẫn xuất xứ, tiêu chuẩn chất lượng, thủ tục gia nhập và rút khỏi thị trường...) có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Đối với bộ phận chủ thể là các hộ gia đình và tổ chức nghề nghiệp, thể chế bảo đảm quyền tài sản và cơ hội cho dịch chuyển tài sản (đất đai, đăng ký quyền tài sản, tiếp cận nguồn lực tài chính cho hoạt động kinh tế, thông tin, chuyển giao kết quả, giao dịch dân sự...), thể chế duy trì niềm tin của người dân, của đội ngũ trí thức trong các tổ chức nghề nghiệp vào chế độ và hệ thống chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nhà nước và doanh nghiệp không thể giải quyết được toàn bộ các nhu cầu sinh kế cho người dân. Người dân luôn có năng lực tự đổi mới sáng tạo để vượt lên hoàn cảnh của chính họ. Do đó, vấn đề là Nhà nước phải tạo lập môi trường cho người dân tự vươn lên; các cơ hội để người dân có thể huy động sức sáng tạo của chính mình cần phải được tạo ra thông qua hệ thống thể chế minh bạch, trách nhiệm. Bộ máy quản trị quốc gia không được tự cho mình quyền lực đứng ngoài bổn phận chính là tạo lập môi trường ổn định cho người dân vươn lên từ đổi mới sáng tạo của chính họ.
Bộ máy quản trị quốc gia là bộ phận chủ thể có tính đặc thù, một mặt, cung ứng các thể chế tích cực thúc đẩy năng lực đổi mới sáng tạo của các chủ thể khác trong nền kinh tế; mặt khác, tạo ra những thể chế cho sự vận hành của chính mình. Do đó, với bộ phận này, thể chế về phối hợp và quy định trách nhiệm rõ ràng của các chủ thể trong hệ thống có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và luôn cần phải được đổi mới do áp lực phát triển của xã hội. Cùng với đó, thể chế quy định yêu cầu phải liên tục đổi mới sáng tạo trong mối quan hệ giữa bộ máy quản trị quốc gia với người dân và cộng đồng doanh nghiệp cũng mang ý nghĩa then chốt, tạo động lực cho đổi mới sáng tạo của bản thân bộ máy quản trị quốc gia.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 549 (tháng 11-2023)
Ngày nhận bài: 08-11-2023; Ngày bình duyệt: 09-11-2023; Ngày duyệt đăng: 22-11-2023.
(1), (3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.80, 122-123.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Sđd, tr.62.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Chí Hiếu: Nhận diện mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội ở Việt Nam hiện nay, http://www.tapchicongsan.org.vn, truy cập ngày 15-9-2023.
2. Vũ Văn Hà: Về mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội thời gian qua, https://hdll.vn, truy cập ngày 20-09-2023.
3. Vũ Văn Hà - Đoàn Minh Huấn (đồng chủ biên): Mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thực trạng, vấn đề và định hướng chính sách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2020.
4. Bùi Ngọc Quỵnh - Phạm Quốc Quân: Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, http://tapchicongsan.org.vn, truy cập ngày 15-9-2023.
5. Ngô Tuấn Nghĩa: Hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo ở Việt Nam, http://tapchicongsan.org.vn, truy cập ngày 20-9-2023.