Quốc tế

Kinh nghiệm liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp nội địa của Thái Lan và Malaixia

8/08/2024 16:46

(LLCT) - Trong bối cảnh phát triển các chuỗi giá trị toàn cầu và hội nhập quốc tế hiện nay, mối liên kết giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là cầu nối để doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào nền kinh tế và chuỗi cung ứng toàn cầu. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm liên kết doanh nghiệp nội địa với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của Thái Lan và Malaixia, từ đó gợi mở kinh nghiệm có thể áp dụng vào thực tiễn ở Việt Nam.

TS HỒ THANH THỦY
Viện Kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Thái Lan dồn lực phát triển thành trung tâm sản xuất ô tô điện lớn ...
Chính phủ Thái Lan mở rộng thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao như sản xuất ô tô, linh kiện... Ảnh: Reuters/TTXVN

1. Kinh nghiệm của Thái Lan

Chính sách tạo mối liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nội địa được Thái Lan xác định là biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu suất của doanh nghiệp nội địa, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây cũng là cách thức để Thái Lan phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ vốn được xem là trọng tâm trong chính sách công nghiệp của quốc gia này. Việc thực hiện chính sách xuất xứ địa phương trong sản phẩm đòi hỏi các doanh nghiệp địa phương phải có sự kết nối với mạng sản xuất toàn cầu cũng như phải đáp ứng được các yêu cầu tổ chức và kỹ thuật của mạng sản xuất toàn cầu. Chính vì thế, xây dựng thể chế liên kết giữa tập đoàn đa quốc gia với doanh nghiệp địa phương, tạo dựng mối liên kết giữa các nhà chế tạo trong nước với nước ngoài, tránh sự phụ thuộc vào nước ngoài được Thái Lan coi trọng.

Hai cơ quan chịu trách nhiệm chính của Thái Lan trong việc tạo lập chính sách liên kết này gồm có Ủy ban Đầu tư, thành lập năm 1966 (Board of Investment - BOI, do Thủ tướng Thái Lan đứng đầu) và Cục Phát triển Công nghiệp hỗ trợ, thành lập năm 1994 (Bureau of Supporting Industry Development - BSID, thuộc Bộ Công nghiệp Thái Lan).

Ban Phát triển liên kết công nghiệp (BOI Unit for Industrial Linkage Development - BUILD) đã được BOI thành lập năm 1992 với chức năng chính là hỗ trợ thông tin thị trường, dịch vụ phù hợp (mà không cung cấp đặc quyền về thuế hay ưu đãi tài chính). Việc thành lập BUILD là để phát triển và thúc đẩy các ngành công nghiệp hỗ trợ, giúp các nhà cung ứng linh kiện địa phương nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động cũng như loại bỏ các trở ngại phát sinh trong quá trình triển khai các hợp đồng thầu phụ khi họ tạo lập được liên kết với các doanh nghiệp lớn (gồm các tập đoàn đa quốc gia đang đầu tư tại Thái Lan và nước ngoài).

Thiết kế Chương trình Người bán gặp Người mua (Vendors Meet Customers Program) là một trong những hoạt động nổi bật của BUILD. Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, nhằm tạo lập các giao dịch mới giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp nội địa, BUILD đã tổ chức các cuộc gặp, thăm quan nhà máy dành cho các nhà cung cấp, doanh nghiệp lớn. Hoạt động này đã thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài tại Thái Lan như Toyota, Mitsubishi Motors, General Motors (trong lĩnh vực công nghiệp ô tô), Delta Electronics, Fujitsu (trong lĩnh vực công nghiệp điện - điện tử).

Một hoạt động quan trọng của BUILD trong phát triển liên kết giữa các nước ASEAN với thị trường toàn cầu là phổ biến Cơ sở dữ liệu công nghiệp hỗ trợ ASEAN (ASEAN Supporting Industry Database - ASID). Kết quả, tháng 8-2017, có 20.198 doanh nghiệp trong ASID, trong đó Thái Lan với 13.534 doanh nghiệp cung cấp (gồm 1.393 doanh nghiệp trong lĩnh vực điện- điện tử; 1.419 doanh nghiệp trong lĩnh vực ô tô và 965 doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác)(1).

Năm 2015, triển lãm thầu phụ công nghiệp lớn nhất ASEAN đã được tổ chức tại Trung tâm Triển lãm và Thương mại quốc tế Bangkok. Hơn 400 nhà thầu phụ đến từ Thái Lan, các nước ASEAN, Nhật Bản và hơn 24.000 người mua trong và ngoài nước đến từ 15 quốc gia tham gia(2). Tại triển lãm này đã có sự tương tác giữa đại diện các nhà cung cấp Thái Lan của một số thương hiệu đẳng cấp thế giới như Samsung Electronics, Mercedes Benz, Mitsubishi Electric,...

Với những chương trình nói trên, BUILD đã trở thành cơ quan có tầm ảnh hưởng ở Thái Lan đối với cả khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa và khu vực công.

Cùng lúc đó, Cục Phát triển Công nghiệp hỗ trợ BSID đẩy mạnh ngành công nghiệp hỗ trợ. Hoạt động của BSID nhận được sự ủng hộ của Chính phủ Nhật Bản đối với phát triển hệ thống thầu phụ, thiết kế và phát triển sản phẩm mẫu, các hoạt động đào tạo kỹ thuật về công nghiệp hỗ trợ. Lĩnh vực mà BSID lựa chọn chủ yếu tập trung vào những ngành công nghiệp linh kiện ứng dụng trong chế tạo máy, điện - điện tử, ngành công nghiệp phụ tùng ô tô, đặc biệt là các sản phẩm khuôn mẫu. Dự án phát triển công nghệ công cụ và khuôn mẫu đã được BSID triển khai đào tạo chuyên gia và phát triển ngành công nghiệp khuôn mẫu của Thái Lan.

Chương trình Phát triển nhà cung ứng cũng là chương trình thu hút được nhiều doanh nghiệp tư nhân Thái Lan tham gia. Trong đó có Viện Nghiên cứu ô tô Thái Lan, Viện Nghiên cứu điện - điện tử, Viện Nghiên cứu thực phẩm, Viện Nghiên cứu dệt may, Viện Nghiên cứu thép... Các Viện nghiên cứu này đã thực hiện kiểm định các phụ tùng và nguyên liệu thô, cung cấp các dịch vụ thông tin, tư vấn và đào tạo cho các nhà sản xuất, đặc biệt là những nhà sản xuất trong nước; đồng thời phối hợp với các quan chức, các cơ quan phi chính thức và đối tác quốc tế để xây dựng các chương trình công nghiệp mới.

Hiện nay, Viện Nghiên cứu ô tô Thái Lan, Viện Nghiên cứu điện - điện tử không còn nhận hỗ trợ tài chính từ phía Chính phủ bởi đã trở thành đơn vị tự chủ sau 5 năm hoạt động. Điều này có những tác động hai mặt, đó là tạo quyền tự chủ nhưng đồng thời hạn chế quy mô và phạm vi hoạt động do các Viện luôn phải tìm kiếm kinh phí để duy trì hoạt động. Một trong những nguồn viện trợ cho hoạt động của Viện là đến từ nước ngoài với dự án Phát triển nguồn nhân lực cho ngành ô tô. Đây thực chất là chương trình “đào tạo giảng viên” song phương do các công ty ô tô của Nhật Bản thực hiện cùng hỗ trợ tài chính. Chương trình chủ yếu phát triển nguồn nhân lực ở một số lĩnh vực quan trọng đối với các doanh nghiệp tư nhân như sản xuất tinh gọn, kỹ năng và tư duy sản xuất...

Nhằm mục đích thu hút sự tham gia của nhiều cơ quan hơn nữa, tạo lập nhiều cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của địa phương cũng như điều phối nhất quán các hoạt động giữa các tổ chức, năm 2000, Văn phòng xúc tiến doanh nghiệp nhỏ và vừa của Thái Lan được thành lập.

Mặc dù các ngành công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực ô tô, điện - điện tử đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn còn nhiều việc Thái Lan đã xác định tiếp tục phải làm để gia tăng các liên kết giữa doanh nghiệp nước ngoài với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước. Do đó sự hỗ trợ phải mang tính dài hạn để phát triển năng lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, nâng cao chất lượng sản phẩm của các nhà cung ứng địa phương. Mối quan hệ dài hạn giữa các nhà đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước đòi hỏi các nhà cung cấp phải nâng cao năng lực cạnh tranh và gia tăng sức ảnh hưởng của sản phẩm của mình. Giữa các nhà đầu tư nước ngoài với các nhà cung ứng địa phương có tiềm năng phải tạo lập được các chương trình liên kết. Để những liên kết này có hiệu ứng lan tỏa thì phải kèm theo các ưu đãi về tài chính cho các doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu (có kinh nghiệm, có kỹ năng và công nghệ cần thiết).

2. Kinh nghiệm của Malaixia

Tiến trình “hóa rồng” của nền kinh tế Malaixia được giải thích dưới nhiều góc độ, trong đó có một trong những động lực chính là từ vốn đầu tư nước ngoài. Để phát huy hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài, Malaixia chú trọng tới chuyển giao công nghệ thông qua kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp bản địa. Malaixia đã nghiên cứu kinh nghiệm và thực hiện liên kết với chính những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có sức cạnh tranh toàn cầu đang hoạt động tại đất nước này. Lựa chọn hàng đầu để quốc gia này thúc đẩy chuyển giao công nghệ qua liên kết đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng giống như Thái Lan, đó chính là phát triển công nghiệp hỗ trợ được thực hiện từ thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước. Với sự tăng giá của đồng Yên vào cuối những năm 1980, đã khiến một số doanh nghiệp điện - điện tử của Nhật Bản di chuyển nhà máy ở trong nước sang các nước ASEAN trong đó có Malaixia, nhờ đó, gia tăng mạnh số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến từ Nhật Bản đối với Malaixia.

Để đón làn sóng di chuyển vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó có dòng vốn đến từ Nhật Bản, đất nước này đã triển khai một số chương trình nhằm thúc đẩy phát triển các nhà cung cấp linh kiện, phụ tùng địa phương và tăng cường hợp tác sản xuất giữa các nhà cung cấp này với các tập đoàn đa quốc gia cũng như các công ty có liên kết với Chính phủ. Điển hình có 2 chương trình là Chương trình phát triển nhà cung cấp (VDP) được triển khai vào năm 1988 và Chương trình liên kết công nghiệp (ILP) triển khai vào các năm 1995 - 1997.

Mục đích của Chương trình VDP là thành lập các công ty “mỏ neo” - là các doanh nghiệp lớn được Chính phủ chỉ định để nuôi dưỡng doanh nghiệp vừa và nhỏ hay các nhà cung ứng bản địa đang cần một số hỗ trợ đặc biệt để phát triển. Công ty “mỏ neo” nội địa đầu tiên do Chính phủ Malaixia chỉ định thực hiện chương trình này là công ty Proton. Công ty này buộc phải mua các linh phụ kiện của các nhà cung ứng địa phương và thực hiện hoạt động hỗ trợ về kỹ thuật, quản lý. Năm 1992, một số công ty “mỏ neo” khác được chỉ định như công ty Viễn thông Malaixia, Sapura Holding, Điện lực Nhật Bản, Sharp... để thực hiện hỗ trợ hợp phần linh phụ kiện điện - điện tử. Theo hợp phần này, khi có liên kết với công ty “mỏ neo” thì các nhà cung ứng bản địa sẽ nhận được một khoản vay miễn phí của Chính phủ trị giá tối đa là 1 triệu ringit với thời hạn 5 năm(3).

Các công ty “mỏ neo” Nhật Bản có mặt ở chương trình VPD vì đây là yêu cầu của Chính phủ Malaixia. Nước này yêu cầu các công ty “mỏ neo” phải có nghĩa vụ hợp tác với chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của mình. Để thúc đẩy và thực hiện chương trình VPD của Malaixia, đã có một “thỏa thuận tay ba” giữa Bộ Thương mại quốc tế và Công nghiệp Nhật Bản (MITI), một công ty “mỏ neo” và một ngân hàng vào năm 1993 để ký thỏa thuận phát triển các nhà cung ứng. MITI đã gửi yêu cầu đến Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản tại Malaixia (JACTIM) đề nghị các công ty Nhật Bản tham gia. Đã có 6 thành viên của JACTIM đồng ý tham gia để trở thành công ty “mỏ neo”(4).

Khảo sát đánh giá hoạt động liên kết thực tế này của Malaixia cho thấy, phần lớn các nhà thầu phụ địa phương khi thực hiện hợp tác với các công ty “mỏ neo” Nhật Bản đều thu được kết quả khả quan khi chất lượng sản phẩm được cải thiện và có giá trị gia tăng nhiều hơn, doanh số tăng lên.

Sau đó, MITI yêu cầu mỗi công ty “mỏ neo” chấp thuận và tăng số lượng nhà cung ứng nội địa của Malaixia trong mỗi giai đoạn 5 năm. Tuy nhiên, vì chương trình VPD chỉ giới hạn trong phạm vi nhà cung cấp Bumiputra - tức công ty có nguồn gốc dân tộc Mã Lai nên đã xuất hiện những khó khăn đối với các doanh nghiệp “mỏ neo” trong quá trình tìm kiếm các nhà cung cấp mới vì các công ty “mỏ neo” đã có nhiều nhà thầu phụ Bumiputra.

Năm 1995, Chương trình liên kết công nghiệp ILP được thành lập đã hỗ trợ cung cấp các ưu đãi tài chính, kết nối kinh doanh cũng như nhiều gói hỗ trợ khác cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành công nghiệp ở các lĩnh vực mục tiêu gồm website, nghiên cứu và triển khai, phát triển thị trường xuất khẩu, nâng cấp công nghệ,... Tổng công ty phát triển công nghiệp vừa và nhỏ (SMIDEC) là đầu mối của chương trình này. SMIDEC chịu trách nhiệm điều phối và tham vấn hỗ trợ cho tất cả các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở trong nước, tạo ra được các doanh nghiệp có tiềm lực thực sự, đạt tiêu chuẩn về chất lượng để đến năm 2020, Malaixia trở thành một quốc gia phát triển toàn diện. Theo chương trình này, trợ cấp thuế đầu tư 60% hoặc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm là các ưu đãi dành cho các doanh nghiệp đạt yêu cầu đặt ra của Chương trình(5).

Để thực hiện sự hỗ trợ hiệu quả đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Malaixia đánh giá, phân loại và xếp hạng các doanh nghiệp theo thứ tự từ “không sao” đến “năm sao” với trình tự tăng dần. Cụ thể:

Không sao: Doanh nghiệp hoạt động rất cơ bản, quy trình sản xuất thủ công, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp là trung bình thấp hoặc âm;

Một sao: Doanh nghiệp có quy trình sản xuất thủ công, hệ thống quản lý chất lượng tại chỗ đạt mức tối thiểu, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp đạt trung bình âm;

Hai sao: Doanh nghiệp có quy trình sản xuất bán tự động, đã đạt mức tuân thủ hoặc giấy chứng nhận cơ bản, việc nâng cấp quy trình và sản phẩm của họ mới ở mức tối thiểu, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp đạt mức trung bình tối thiểu;

Ba sao: Doanh nghiệp đã mở rộng quá trình sản xuất tự động hóa, có hệ thống quản lý chất lượng tại chỗ, thực hiện việc nâng cấp quy trình và sản phẩm đã đạt mức trung bình, có đăng ký sở hữu trí tuệ, đã sẵn sàng ở mức độ vừa phải đối với chứng nhận tuân thủ xuất khẩu;

Bốn sao: Doanh nghiệp quy trình sản xuất hoàn toàn tự động hóa, có quy trình sản xuất và cải tiến sản phẩm, có tiềm năng xuất khẩu cao với các chứng nhận như: đạt dấu kiểm định của Cộng đồng châu Âu, chứng nhận thực hành sản xuất tốt, phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn;

Năm sao: Doanh nghiệp có thương hiệu và bao bì tốt, đáp ứng tiêu chuẩn xác nhận của các quốc gia nhập khẩu và sẵn sàng xuất khẩu ra nước khác.

Việc xếp loại sao của doanh nghiệp là nhằm mục tiêu xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp so với nhiệm vụ trọng tâm, từ đó định hướng phát triển có chọn lọc và thực hiện sự hỗ trợ tài chính phù hợp đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như thúc đẩy liên kết giữa các công ty lớn, các tập đoàn đa quốc gia với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiềm năng. Các doanh nghiệp nếu như đạt được xếp hạng từ bốn sao sẽ nhận được sự hỗ trợ để hướng tới thị trường thế giới thông qua các hoạt động liên kết với tập đoàn đa quốc gia hoặc các doanh nghiệp nhà nước (người mua).

Mặc dù, hai chương trình nói trên đều nhằm đạt được mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ và tạo lập liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, đến nay vẫn được Malaixia duy trì, song nó đã không còn là thành phần chủ yếu trong chính sách doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quốc gia này đã chuyển trọng tâm chính sách từ xây dựng năng lực liên kết với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới sáng tạo nhằm giảm và tránh sự lệ thuộc vào các tập đoàn đa quốc gia.

2. Một số gợi mở về thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nội địa tại Việt Nam

Qua kinh nghiệm của Thái Lan và Malaixia trong việc thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp nội địa, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, một số kinh nghiệm có thể áp dụng đối với Việt Nam như sau:

Thứ nhất, xác định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần không thể tách rời của nền kinh tế

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam thực hiện chính sách hợp tác đầu tư nước ngoài với nội hàm mở rộng hơn. Đó là hợp tác cả về quản lý, kết nối, đầu tư mua lại và sáp nhập lẫn nhau, đặc biệt hợp tác bảo vệ môi trường, bảo vệ người lao động, bảo đảm các lợi ích xã hội. Sự hợp tác phải mang tính chủ động, bình đẳng, có chọn lọc chứ không phải chấp nhận mọi phương án của nhà đầu tư và điều quan trọng nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế quốc gia, nâng tầm trình độ sản xuất, dần thoát khỏi gia công, lắp ráp đơn thuần.

Để tạo được sự hòa hợp vào nền kinh tế quốc gia của các nhà đầu tư nước ngoài thì việc ban hành các chính sách thúc đẩy liên kết của cơ quan chức năng phải rất chủ động. Cho nên, đồng thời với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, Chính phủ cần yêu cầu các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam phải tạo dựng hệ sinh thái doanh nghiệp hiệu quả, bền vững. Cụ thể, các doanh nghiệp này phải có trách nhiệm xây dựng mối quan hệ tương hỗ với các doanh nghiệp trong nước trên nguyên tắc cùng phát triển, tăng cường sự liên kết với các doanh nghiệp nội địa, thực hiện chuyển giao kiến thức, công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ hai, tạo sự đồng bộ trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Hiện nay, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước đang được thực thi bởi một số cơ quan chức năng khác nhau, giữa hai đối tượng doanh nghiệp này đang thiếu sự đồng bộ về các chính sách, cơ chế. Hiện nay, tại Việt Nam, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, các chính sách đang có nhiều ưu đãi hơn đối với bộ phận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi đó sự đóng góp của bộ phận doanh nghiệp này đối với nền kinh tế lại chưa tương xứng. Vì vậy, để tạo được sự đồng bộ trong quản lý môi trường đầu tư phải được cải thiện. Theo đó, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách liên quan đến đầu tư theo hướng công khai, minh bạch, nhất quán và đối xử công bằng với tất cả các loại hình doanh nghiệp. Các chính sách ưu đãi hay khuyến khích đầu tư được hoàn thiện trên nguyên tắc gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát để bảo đảm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đúng cam kết đầu tư và tuân thủ đúng tiêu chí, điều kiện hưởng ưu đãi. Hướng các doanh nghiệp đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu nông nghiệp công nghệ cao.

Thứ ba, thay đổi cách thức tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư và gia tăng các hoạt động có ý nghĩa đối với việc thúc đấy liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Lựa chọn cách thức xúc tiến đầu tư hiệu quả hơn thay vì việc tổ chức triển khai rầm rộ nhiều hội nghị xúc tiến đầu tư như hiện nay với chi phí không nhỏ mà mục tiêu và nội dung lại không có những khác biệt. Chẳng hạn, có thể tổ chức hội nghị theo hình thức kết hợp cả trực tiếp và trực tuyến, thậm chí có thể phát trực tiếp trên nền tảng xã hội để thu hút không chỉ đại biểu dự hội nghị mà cả những doanh nghiệp đang ở các nơi khác cũng có thể tham gia, cùng giao lưu, tương tác, cùng được hiểu rõ về môi trường đầu tư tại địa phương. Qua đó, phần chi phí tổ chức hội nghị còn lại dùng để thực hiện những hoạt động khác chưa được triển khai như hội nghị xúc tiến nhà thầu phụ, triển lãm nhà thầu phụ, chương trình gặp gỡ chuyên gia tư vấn doanh nghiệp.

Có chương trình, chính sách khuyến khích tư nhân tham gia xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu trực tuyến chất lượng cao để cung cấp thông tin một cách chi tiết về năng lực sản xuất và xếp hạng doanh nghiệp; cập nhật dữ liệu thường xuyên những ngành và lĩnh vực mà Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh, từ đó tạo được hiệu ứng lan tỏa đối với những ngành và lĩnh vực khác.

Thứ tư, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp trong nước trên cơ sở nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cơ cấu lại sản xuất theo chuỗi giá trị

Nguồn nhân lực của nền kinh tế chỉ ở trình độ thấp thì cơ hội thu hút một lượng lớn các công nghệ cao từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rất khó khăn. Với mục đích thúc đẩy mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như để nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp nội địa trên cơ sở liên kết với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, điều căn cốt nhất là cần có nguồn nhân lực trình độ cao và nâng cao năng lực của doanh nghiệp. Đây cũng là điều kiện để tăng trưởng và phát triển bền vững của bất kỳ đất nước nào. Vì vậy, chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên gia, đội ngũ quản lý hiện đại và khoa học, đội ngũ người lao động có tay nghề kỹ thuật, kỹ năng cao để có thể sẵn sàng nắm bắt cơ hội và chủ động trong hợp tác, hấp thụ các kiến thức chuyên môn ở trình độ cao. Chính với nguồn nhân lực bảo đảm những yêu cầu như vậy khi làm việc tại các doanh nghiệp nội địa sẽ là nhân tố góp phần thúc đẩy và duy trì liên kết, quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Cần tập trung vào những giải pháp hình thành chuỗi cung ứng trong nước, cơ cấu lại sản xuất theo chuỗi giá trị và nâng cao khả năng hấp thụ công nghệ mới, hiện đại cho các doanh nghiệp nội địa bằng cách tăng cường liên kết với các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước. Xác định vai trò “sếu đầu đàn” của các tập đoàn nhà nước trong công tác nghiên cứu phát triển thông qua việc dành nguồn đầu tư thích đáng cho cải tiến công nghệ và trình độ quản lý sản xuất. Các tập đoàn nhà nước có cơ chế đặt hàng cho các doanh nghiệp trong nước để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng và nâng cao năng lực sản xuất.

Tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu, các doanh nghiệp trong nước cần định vị được vị trí của mình trong toàn bộ chuỗi và xác định cần phải làm gì để đáp ứng yêu cầu của các tập đoàn đa quốc gia. Chỉ khi các doanh nghiệp Việt Nam xác định được vị trí thì mới khẳng định được vai trò và tiến tới những vị trí có giá trị cao trong chuỗi sản xuất toàn cầu.

Thứ năm, gia tăng vai trò của các hiệp hội trong tạo lập liên kết giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nội địa

Nếu như Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sẽ thực hiện các hỗ trợ đối với doanh nghiệp nước ngoài thì đối với các doanh nghiệp trong nước, tùy theo mỗi lĩnh vực, sẽ tham gia các hiệp hội khác nhau, như Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hay các hiệp hội theo các lĩnh vực, các ngành sản xuất khác nhau... Trong đó, các hiệp hội vừa đóng vai trò là cầu nối, vừa đóng vai trò hỗ trợ tạo điều kiện phát triển các liên kết này. Chẳng hạn, để kiến nghị Nhà nước xây dựng hệ thống thuế phù hợp nhằm tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp tích tụ vốn và mở rộng quy mô sản xuất sẽ có Hội tư vấn thuế Việt Nam hỗ trợ. Hiệp hội ngân hàng đảm nhận hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tiếp cận tín dụng, tạo vốn cho đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp.

_________________

Ngày nhận bài: 24-10-2023; Ngày thẩm định: 20-11-2023; Ngày duyệt đăng: 22-11-2023.

(1), (2), (3), (4) Nguyễn Mạnh Tiến, Đỗ Tiến Vượng: Kinh nghiệm quốc tế trong thúc đẩy mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Chính sách và Quản lý khoa học và công nghệ, Tập 7, số 2, 2018, tr.4, 4, 6, 7.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Kinh nghiệm liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp nội địa của Thái Lan và Malaixia
    POWERED BY