(LLCT) - Gia Lai là tỉnh miền núi Tây Nguyên, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, dân số hơn 1,4 triệu người, tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 44% (chủ yếu là người Jrai và Bahnar). Trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Gia Lai đã có nhiều chính sách và giải pháp trong việc thu hút, đãi ngộ và sử dụng đội ngũ trí thức. Nhờ đó, đội ngũ trí thức trở đã có những đóng góp quan trọng vào quá trình xây dựng và phát triển địa phương.
Lãnh đạo tỉnh Gia Lai gặp mặt đại diện trí thức, văn nghệ sĩ, phóng viên báo chí nhân dịp Xuân Mậu Tuất - 2018
Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội và đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Do đó, xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị(1).
Ðánh giá cao vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức, đồng thời thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Gia Lai đã có nhiều chính sách và giải pháp trong việc thực hiện chủ trương xây dựng đội ngũ trí thức, cụ thể: Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai đã ban hành Kế hoạch số 38-KH/TU ngày 22-8-2008 về nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền và tổ chức thực hiện các nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X; Chương trình số 45-Ctr/TU ngày 27-10-2008 nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh Gia Lai đã chủ động xây dựng các kế hoạch, chương trình cụ thể nhằm triển khai thực hiện chính sách thu hút, đãi ngộ và sử dụng đội ngũ trí thứcphù hợp với nhu cầu thực tế của địa phương.
1. Những kết quả đạt được trong thực hiện chính sách thu hút, đãi ngộ và sử dụng đội ngũ trí thức ở Gia Lai
Trong 10 năm qua cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đội ngũ trí thức tiếp tục tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, đã và đang có những đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển địa phương. Kết quả đó biểu hiện trên nhiều mặt:
- Đội ngũ trí thức tăng nhanh về số lượng và chất lượng
Năm 2008, toàn tỉnh chỉ có 20.885 người có trình độ từ cao đẳng trở lên, chiếm 1,74% dân số toàn tỉnh (trong số đó có 5 tiến sĩ; 197 thạc sĩ; 14.570 đại học; 5.978 cao đẳng; có 4 bác sĩ chuyên khoa cấp II; 151 thạc sĩ và bác sĩ chuyên khoa cấp I). Đến cuối 2010, tỉnh có 38.902 người có trình độ từ cao đẳng trở lên, chiếm 5,14% dân số toàn tỉnh (trong đó có 1 Phó giáo sư - tiến sĩ, 8 tiến sĩ, 6 bác sĩ chuyên khoa cấp II, 667 người có trình độ thạc sĩ và bác sĩ chuyên khoa cấp I, có 19.754 người có trình độ đại học, 18.467 người có trình độ cao đẳng). Cuối năm 2016 đến nay, toàn tỉnh có 54.185 người có trình độ cao đẳng trở lên, đã tăng 15.283 người so với 2010 (trong đó có 1 Phó giáo sư - tiến sĩ, 19 tiến sĩ, 943 thạc sĩ, 29.631 đại học và 23.591 cao đẳng)(2).
Với trình độ, năng lực ngày càng đáp ứng yêu cầu công việc, đội ngũ trí thức đã đóng góp to lớn vào công việc tham mưu, góp ý, thẩm định, ban hành chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Nhiều đề tài, dự án sáng tạo, các công trình nghiên cứu sát thực của trí thức được thực hiện đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Bên cạnh đó, với việc coi trọng khâu tạo nguồn và tích cực bồi dưỡng, đội ngũ trí thức trẻ, trí thức nữ và trí thức người dân tộc thiểu số (DTTS) ở địa phương ngày càng đông đảo, đang đóng góp tích cực cho sự ổn định, phát triển tỉnh nhà nói chung và vùng đồng bào DTTS nói riêng.
- Chú trọng thực hiện chính sách thu hút, đãi ngộ và sử dụng trí thức
Để từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức, từ 2009 đến nay, tỉnh đã ban hành nhiều đề án, chính sách nhằm thu hút đội ngũ trí thức có tay nghề, trình độ cao, các chuyên gia giỏi ở các lĩnh vực mà địa phương còn thiếu. Tỉnh đã chú trọng thực hiện chính sách đãi ngộ đối với trí thức (đặc biệt là cán bộ, công chức có trình độ cao về tỉnh công tác). Đến nay, đã thu hút hàng nghìn trí thức về công tác tại các cơ quan, đơn vị, địa phương trong tỉnh: huyện Đăk Pơ 800 người, huyện Krông Pa 598 người, huyện Kông Chro 522 người; Chư Sê 434 người, thành phố Pleiku 75 người (trong đó có 10 thạc sĩ)(3).
Thực hiện Đề án số 03-ĐA/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “về việc tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp đại học bố trí về cơ sở công tác”, qua 3 đợt tuyển chọn, Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án đã tuyển chọn được 141 sinh viên tốt nghiệp đại học bố trí công tác ở các xã vùng II, vùng III của 15 huyện, thị xã trên địa bàn tỉnh (chủ yếu thuộc các ngành nông nghiệp, hành chính, kinh tế - tài chính, địa chính...). Đến nay, có 106 người được xét tuyển vào công chức, viên chức, đạt 75,17%; 93 người đã được cấp ủy cho đi học lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng và 55 người được kết nạp vào Đảng(4).
UBND tỉnh Gia Lai đã ban hành Quyết định số 39/2010/QĐ-UBND “quy định chế độ hỗ trợ đào tạo sau đại học và chính sách thu hút người có trình độ cao về công tác tại tỉnh Gia Lai”, theo đó, bảo đảm ngoài chế độ hỗ trợ kinh phí ban đầu, được tuyển dụng ngay không chờ kỳ thi tuyển, được hưởng 100% mức lương theo ngạch, bậc quy định, người có văn bằng tốt nghiệp sau đại học còn được tạo điều kiện cho vợ (hoặc chồng) có việc làm ổn định tại tỉnh, được giao đất để xây dựng nhà ở.
Việc quản lý, sử dụng trí thức được chú trọng. Các cơ quan, đơn vị, địa phương đã chủ động xây dựng kế hoạch quy hoạch, sử dụng đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý là những người có trình độ chuyên môn cao, có ý thức rèn luyện, phấn đấu vươn lên, có nhiều đóng góp tiêu biểu cho địa phương, thí dụ như: trong 84 đồng chí được quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt của địa phương nhiệm kỳ 2015-2020, thì có 67 đồng chí có trình độ đại học (79,76%), 14 đồng chí có trình độ thạc sỹ (16,67%) và 1 đồng chí có trình độ tiến sỹ (1,19%). Trong 20 đồng chí quy hoạch Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, có 14 đồng chí có trình độ đại học (70%), 6 đồng chí có trình độ thạc sỹ (30%). Về lý luận chính trị, 100% có trình độ cao cấp, cử nhân chính trị(5). Công tác sử dụng trí thức được thực hiện chặt chẽ, bảo đảm tính đồng bộ cũng như mối tương quan giữa trước mắt và lâu dài, chú trọng đến trí thức nữ, trí thức trẻ, trí thức là người DTTS.
- Đào tạo, bồi dưỡng trí thức được quan tâm, chú trọng
Bên cạnh việc thực hiện chính sách thu hút, đãi ngộ, việc đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ trí thức cũng được tỉnh đặc biệt chú trọng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị. Từ năm 2009 cho đến nay, tỉnh đã chủ động liên kết với Học viện Chính trị khu vực III mở 9 lớp Cao cấp lý luận chính trị hệ tại chức với 959 học viên và 671 cán bộ, công chức đi học tập trung tại Học viện Chính trị khu vực III. Cử 36 cán bộ đi bồi dưỡng và đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài theo Đề án 165 của Ban Tổ chức Trung ương. Đã cử 17 cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng an ninh - quốc phòng đối tượng 1 theo quy định(6).
Trường Chính trị tỉnh và các Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị, Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp & Giáo dục thường xuyên của tỉnh đã mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, sơ cấp và trung cấp lý luận chính trị để nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Giai đoạn 2011- 2016, Trường Chính trị tỉnh Gia Lai đã đào tạo, bồi dưỡng 240 lớp với tổng số trên 15.902 học viên(7) (đối tượng chính là cán bộ, công chức, viên chức) của hệ thống chính trị địa phương.
Cũng thông qua hoạt động liên kết, các viện, các trường đại học có uy tín đã cử các cán bộ có trình độ cao hướng dẫn, bồi dưỡng đội ngũ trí thức của tỉnh và cùng tham gia một số nhiệm vụ nghiên cứu khoa học đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
- Quan tâm tạo nguồn, phát triển trí thức người DTTS
Đánh giá được tầm quan trọng của đội ngũ trí thức người DTTS, tỉnh đã thực hiện nhiều chính sách ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức người DTTS thông qua việc ban hành Kế hoạch số 4506/KH-UBND, ngày 28-9-2016 về thực hiện đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số tỉnh Gia Lai giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2030. Trên cơ sở đó, tỉnh đã có cơ chế đặc biệt trong ưu tiên tạo nguồn, tuyển dụng, quy hoạch, sử dụng gắn với đào tạo, bồi dưỡng để trí thức người DTTS tiếp tục có những đóng góp đối với sự phát triển của địa phương.
Đến nay, toàn tỉnh có trên 4.449 cán bộ, công chức, viên chức là người DTTSđang công tác trong các cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể, đơn vị sự nghiệp cấp huyện, cấp tỉnh, chiếm khoảng trên 14% tổng số cán bộ, công chức, viên chức toàn tỉnh, trong đó nữ là người DTTS: 1.998/4.449, chiếm 44,90%(8). Các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTSđược triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả.
Việc tạo nguồn, tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức người DTTS, nhất là người Bahnar, Jrai được quan tâm chỉ đạo. Trên cơ sở các đề án, nghị quyết của tỉnh, các ngành, các cấp thường xuyên xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức người DTTSsau khi tuyển dụng; tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để họ được rèn luyện, trưởng thành qua thực tiễn. Qua đó, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTSđã có sự phát triển đáng kể về số lượng, chất lượng; tham gia ngày càng đông đảo trong hệ thống chính trị ở địa phương.
2. Một số hạn chế, bất cập và nguyên nhân
Thứ nhất, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền địa phương, và người đứng đầu ở các cơ quan, đơn vị địa phương về việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng người tài, người có chuyên môn cao chưa thật sự đầy đủ, thiếu nhất quán trong cơ chế, chính sách, đào tạo, sử dụng trí thức, do đó dù tăng về số lượng song những đóng góp cụ thể, thiết thực của trí thức lại chưa tương xứng.
Thứ hai, việc thu hút, đãi ngộ chưa tương xứng, chưa thực sự tạo ra bứt phá, do vậy chưa tạo ra động lực thực sự để trí thức ở những ngành nghề về kỹ thuật và công nghệ cao, các chuyên gia giỏi ở những ngành nghề, lĩnh vực mà địa phương còn thiếu sẵn sàng đến và tâm huyết cộng tác với địa phương.
Do là tỉnh miền núi, địa hình, điều kiện xã hội còn nhiều khó khăn, môi trường làm việc, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật còn thiếu, lạc hậu, có nơi xuống cấp, vì vậy chưa phát huy hết được năng lực thực sự của những người được đào tạo chính quy, bài bản, do đó chưa thu hút, chưa níu chân được trí thức trẻ, trí thức có chuyên môn cao ở lại công tác, cống hiến cho địa phương.
Thứ ba, vẫn còn tình trạng “vừa thừa vừa thiếu” ở một số lĩnh vực, ngành nghề, đặc biệt là thiếu các bác sĩ, kỹ sư có tay nghề cao, các chuyên gia giỏi, nhà khoa học trong các ngành/lĩnh vực thuộc về lợi thế của địa phương.
Thứ tư,khâu rà soát, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với nguồn nhân lực chất lượng cao còn chưa cụ thể, chưa kịp thời. Việc tuyên truyền, quảng bá qua nêu gương các trí thức thành công khi đến với địa phương chưa được chú trọng. Một số trí thức khi về địa phương chưa thực sự được trọng dụng trong thực tế.
Thứ năm, một bộ phận trí thức hiện nay năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu, có bằng cấp nhưng chưa tương xứng với năng lực hoạt động thực tế, thiếu tính chuyên nghiệp, tác phong, lề lối làm việc còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới.
3. Một số giải pháp tiếp tục thu hút, đãi ngộ và sử dụng đội ngũ trí thức ở Gia Lai thời gian tới
Để tiếp tục xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trong thời gian tới cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ quan, đơn vị về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức, từ đó tạo môi trường và điều kiện làm việc thực sự thuận lợi nhằm phát huy tài năng, trí tuệ của đội ngũ trí thức vào sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh nhà.
Hai là, tiếp tục rà soát, bổ sung các chính sách mới, cần có chính sách đãi ngộ mang tính đột phá để thu hút trí thức có trình độ cao về công tác tại địa phương. Chú trọng việc trọng dụng đối với trí thức là nhà khoa học, chuyên gia giỏi, ở các ngành nghề, lĩnh vực mà địa phương còn thiếu về địa phương công tác. Bên cạnh đó, gắn việc thực hiện chính sách thu hút với chính sách đãi ngộ và sử dụng trí thức hiệu quả. Làm tốt công tác quảng bá, giới thiệu và tôn vinh trí thức nhằm tuyên truyền qua đó thu hút trí thức từ các nơi khác về địa phương.
Ba là, khắc phục tình trạng trọng dụng chưa đúng người đúng việc, việc bố trí, sử dụng sau thu hút cần phải đúng với năng lực, sở trường chuyên môn nhằm cổ vũ, tạo tiền đề để tiếp tục thu hút trí thức về địa phương. Trên cơ sở đó, cần điều chỉnh các chính sách về quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm và đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức. Có thể thực hiện chủ trương“thi tuyển” mang tính cạnh cạnh và công bằng trong bố trí các chức danh lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, đơn vị. Đây là một hình thức, giải pháp tích cực nhằm thu hút những người có tài, có đức vào làm việc trong bộ máy của các cơ quan, đơn vị tại địa phương.
Bên cạnh đó, địa phương cần có cơ chế cụ thể trong việc tôn vinh những trí thức, nhà khoa học, chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực của địa phương có nhiều đóng góp vào sự nghiệp phát triển của địa phương, kịp thời biểu dương, khuyến khích và động viên trí thức toàn tâm, toàn ý cống hiến.
Bốn là, tiếp tục chú trọng xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đối với trí thức, nhất là trí thức trẻ, trí thức là nữ, trí thức người DTTS của địa phương.
Cần làm tốt khâu rà soát và đánh giá đúng thực trạng trí thức của địa phương trên cơ sở các ngành nghề cần và thiếu để chủ động xây dựng các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo năng lực, sở trường của từng nhóm trí thức, tránh tình trạng đào tạo, bồi dưỡng tràn lan, gây lãng phí. Chủ động rà soát đội ngũ cán bộ của cơ quan, đơn vị để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ.
Năm là, cần thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng nhằm tôn vinh những trí thức giỏi, tài năng, có nhiều cống hiến cho sự phát triển của địa phương. Tăng cường tiếp xúc, đối thoại với trí thức để lắng nghe ý kiến của họ, tạo sự cởi mở, chân thành giữa các bên.
Với vai trò là lực lượng lao động trí tuệ, đội ngũ trí thức luôn là lực lượng đóng góp quan trọng trong tham mưu, hoạch định chính sách, nghiên cứu khoa học, ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, đời sống. Đội ngũ trí thức tỉnh Gia Lai đã góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong thời gian tới, Gia Lai tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu: hoàn thiện chính sách, môi trường làm việc, quan tâm, thu hút, đãi ngộ và sử dụng trí thức hiệu quả… nhằm tiếp tục xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu tình hình, nhiệm vụ của địa phương trong thời kỳ mới.
______________________
(1) Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6-8-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
(2), (3) Báo cáo số 267-BC/TU ngày 17-5-2018 của Tỉnh ủy Gia Lai về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW.
(4) Báo cáo số 128-BC/TU ngày 20-2-2007 về tổng kết Đề án số 02-ĐA/TU ngày 17-4-2009 của Ban thường vụ Tỉnh ủy “về đối mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn giai đoạn 2009-2015”.
(5), (6) Báo cáo tổng kết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai 2017 về thực hiện nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII “về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
(7) Báo cáo Tổng kết Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2011-2016 của Trường Chính trị tỉnh Gia Lai.
(8) Báo cáo thống kê số lượng, chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã năm 2017, Sở nội vụ tỉnh Gia Lai.
TS Nguyễn Thái Bình
ThSLê Thị Tình
Trường Chính trị tỉnh Gia Lai