(LLCT) - Nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự là lực lượng thực hiện công tác kỹ thuật trong quân đội, không chỉ có vai trò về quản lý, khai thác, sử dụng, bảo quản, sửa chữa các loại vũ khí trang bị kỹ thuật mà còn trực tiếp tham gia quá trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công nghệ mới vào trong cả lĩnh vực quân sự và dân sự. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự bảo đảm có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn cao, kỹ năng chuyên nghiệp, thành thạo giúp nâng cao khả năng tự chủ trong bảo quản, sử dụng và sản xuất, sửa chữa, cải tiến các loại vũ khí trang bị, kỹ thuật, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
TS HỒ BÁ TÚ
Học viện Kỹ thuật quân sự
1. Mở đầu
Nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự là tổng hòa các yếu tố về số lượng, chất lượng của lực lượng kỹ thuật gồm sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng, nhân viên chuyên môn kỹ thuật… công tác trong nhiều lĩnh vực, với chuyên môn khác nhau thuộc các cơ quan, học viện, nhà trường, đơn vị trong quân đội. Nguồn nhân lực kỹ thuật là một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực trong quân đội, là yếu tố quyết định nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý, sử dụng, bảo quản, sửa chữa, cải tiến các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật của quân đội, tham gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng, góp phần tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ quốc phòng, đáp ứng yêu cầu phát triển, hiện đại hóa quân đội trong giai đoạn hiện nay.
2. Nội dung
2.1 Nhân lực kỹ thuật - nguồn lực quan trọng của quân đội
Nguồn nhân lực trong quân đội nói chung, nhân lực kỹ thuật nói riêng có vai trò rất quan trọng, là lực lượng thực hiện công tác quản lý, bảo quản, khai thác, sử dụng và nghiên cứu nâng cao chất lượng, hiệu quả các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật phục vụ cho nhiệm vụ thường xuyên, như: công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Ngoài ra, còn thực hiện các nhiệm vụ đột xuất khác, như: phòng chống lụt bão, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn (gần đây là cơn bão số 3 (Yagi)... đồng thời, còn phục vụ cho các sự kiện quan trọng của đất nước và quốc tế.
Nhân lực kỹ thuật quân sự đóng vai trò chủ đạo trong công việc nghiên cứu, thiết kế và phát triển các kỹ thuật, công nghệ quân sự mới, như: các loại vũ khí công nghệ cao, hệ thống ra-đa, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, công nghệ tàng hình và xây dựng hệ thống phòng thủ hiện đại… Cùng toàn quân, nguồn nhân lực kỹ thuật luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trước các phương thức chiến tranh mới, bảo đảm ưu thế chiến lược về quốc phòng, phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Tổng kết năm 2024, Bộ Quốc phòng đánh giá kết quả thực hiện công tác kỹ thuật trong quân đội, đã bám sát thực tiễn, bảo đảm kịp thời cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và các nhiệm vụ khác: “Thẩm định, nghiệm thu chặt chẽ các chương trình, đề án, dự án mua sắm, tăng hạn, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí trang bị kỹ thuật. Chủ động nghiên cứu, sản xuất nhiều loại vật tư kỹ thuật với gần 800 danh mục và gần 90.000 sản phẩm vật tư kỹ thuật”(1).
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, phải “ra sức đào tạo thật nhiều cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý cần thiết cho sản xuất phát triển”(2). Do đó, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH, cần quan tâm xây dựng, phát triển nguồn nhân lực, trong đó có nhân lực kỹ thuật. Đối với quá trình phát triển của nước ta, xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là giải pháp quan trọng, là một trong các khâu đột phá để khắc phục thách thức tụt hậu xa hơn về kinh tế, đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh. Đảng chủ trương: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”(3).
Là một bộ phận quan trọng của xã hội, quân đội còn tham gia vào các hoạt động chung, nhiều lĩnh vực của xã hội. Do đó, việc quân đội tham gia vào các hoạt động xây dựng và phát triển kinh tế, góp phần tạo nguồn của cải vật chất cho xã hội và giải quyết một phần nhu cầu của quân đội vừa là chức năng, vừa thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội. Nghiên cứu, ứng dụng và triển khai các công nghệ hiện đại, phát triển ngành công nghiệp quốc phòng, đồng thời sản xuất hàng hóa, dịch vụ khoa học kỹ thuật phục vụ lĩnh vực dân sự là một nhiệm vụ quan trọng của công nghiệp quốc phòng nói chung và của các viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự nói riêng. Đây là yêu cầu quan trọng góp phần làm cho công nghiệp quốc phòng bảo toàn được năng lực nghiên cứu, triển khai công nghệ, sản xuất quân sự và đội ngũ công nhân lành nghề, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Đội ngũ sĩ quan quân đội, đặc biệt là nhân lực kỹ thuật không thể tách rời sự nghiệp chung của đất nước, đóng góp tích cực và hiệu quả vào công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội.
Nguồn nhân lực kỹ thuật có vai trò quan trọng đối với nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất vũ khí, đặc biệt là một số chủng loại vũ khí, khí tài hỏa lực mạnh; nâng cao năng lực sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật có trong biên chế, như: sửa chữa các loại tàu chiến đấu mặt nước, tàu ngầm, máy bay thế hệ mới... Đồng thời, nhân lực kỹ thuật quân sự là lực lượng đi đầu trong hoạt động nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu công nghệ hiện đại như: trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, dữ liệu lớn,… vào trong phát triển nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng. Cùng với đó, một bộ phận nguồn lực kỹ thuật công tác tại các học viện, nhà trường, các viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, giảng dạy, nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của ngành khoa học kỹ thuật, đòi hỏi phải có trình độ, năng lực, chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt, có vai trò quan trọng trong việc trang bị cho người học những kiến thức khoa học kỹ thuật cần thiết, đóng góp vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, làm nền tảng tiến lên hiện đại.
Như vậy, trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới, là quá trình thực hiện xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, bên cạnh việc quản lý, bảo quản, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật là quá trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại, từng bước làm chủ các công nghệ nền, công nghệ lõi trong nghiên cứu thiết kế, chế thử, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật chiến lược, công nghệ cao. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị cần quan tâm xây dựng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kỹ thuật đủ về số lượng, cơ cấu hợp lý, cân đối, đồng bộ về ngành nghề và trình độ, năng lực cao, bảo đảm tính vững chắc, lâu dài.
2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kỹ thuật trong quân đội hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay, để tạo nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự có chất lượng cao, cần thực hiện tốt các nội dung sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng về tầm quan trọng của nguồn nhân lực kỹ thuật trong quân đội
Cần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của nguồn nhân lực kỹ thuật để phát huy trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực này. Nhân lực kỹ thuật là một bộ phận quan trọng của quân đội, là lực lượng xung kích giữ vai trò nòng cốt trong nhiệm vụ phát triển nền khoa học - kỹ thuật quân sự của đất nước, thúc đẩy nền công nghiệp quốc phòng phát triển theo hướng lưỡng dụng. Bởi vậy, xây dựng nguồn nhân lực kỹ thuật vừa là nhiệm vụ quan trọng trước mắt, vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, cần được các tổ chức, lực lượng trong quân đội quán triệt, nhận thức đầy đủ và phát huy trách nhiệm trong phát triển, sử dụng mà trước hết là cấp ủy đảng các cấp.
Nhận thức rõ sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nhân lực kỹ thuật quân sự, đòi hỏi các tổ chức, lực lượng cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực, bảo đảm tốt điều kiện làm việc, nghiên cứu, học tập. Thường xuyên phát động các phong trào thi đua trong nghiên cứu, sáng tạo khoa học quân sự. Tăng cường sự đầu tư kinh phí, quan tâm, khuyến khích đổi mới sáng tạo, khích lệ động viên nhân lực kỹ thuật tích cực tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng kiến cải tiến kỹ thuật phục vụ cho thực hiện các nhiệm vụ và các hoạt động khác tại đơn vị. Có biện pháp cụ thể để hỗ trợ, tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên kỹ thuật tham gia nghiên cứu khoa học các cấp toàn quân, toàn quốc, đáp ứng yêu cầu xây dựng đơn vị và quân đội trong thời kỳ mới.
Hai là, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực kỹ thuật
Để xây dựng, phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật, cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng nhân lực kỹ thuật ở các cấp. Đây là nội dung quan trọng, cơ bản và lâu dài, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng tiềm lực khoa học kỹ thuật cho quân đội. Về mục đích của công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”(4), “Học để sửa chữa tư tưởng... tu dưỡng đạo đức cách mạng... Học để tin tưởng... Học để hành”(5). Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực kỹ thuật quân sự phải bảo đảm sự toàn diện, chuyên sâu, có năng lực chuyên môn giỏi và kỹ năng thành thạo, phương pháp làm việc khoa học, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của nguồn nhân lực kỹ thuật trong quân đội.
Cần coi trọng bồi dưỡng nguồn nhân lực kỹ thuật về phẩm chất đạo đức, lối sống, bản lĩnh chính trị, rèn luyện phương pháp, tác phong công tác, chấp hành kỷ luật, giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội của cá nhân; tiến hành bồi dưỡng toàn diện về chuyên môn nghề nghiệp, trình độ lý luận, chính trị, văn hóa,... xây dựng cả đức và tài trong đó đức là gốc. Quan tâm bồi dưỡng sát thực tế “học đi đôi với hành”, tăng cường rèn luyện, thử thách qua thực tiễn tại đơn vị cơ sở để nâng cao tay nghề, thành thạo các kỹ năng chuyên môn.
Tiếp tục quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các học viện, nhà trường của quân đội theo định hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực kỹ thuật ở từng cấp đòi hỏi các cơ sở đào tạo, các cơ quan, đơn vị tập trung hoàn thiện mục tiêu, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng; chú trọng chất lượng nguồn tuyển chọn đầu vào; quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đáp ứng yêu cầu phát triển của công tác khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự, xây dựng quân đội theo hướng hiện đại.
Nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới theo tinh thần chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế và hiệu quả, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự phải tăng cường các hoạt động hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu nước ngoài để nâng cao trình độ nhân lực kỹ thuật, nhất là tham gia đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ phục vụ công nghiệp quốc phòng. Tạo điều kiện cho nhân lực kỹ thuật quân sự tham gia vào các dự án hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, thuận lợi trong chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm với các đồng nghiệp từ các quốc gia khác trên thế giới. Tạo cơ chế để họ tham gia vào các nghiên cứu liên ngành, kết hợp giữa khoa học quân sự và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: y tế, sinh học và môi trường… góp phần tạo ra các giải pháp toàn diện cho lĩnh vực quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, có cơ chế, chính sách đặc thù đối với nguồn nhân lực kỹ thuật trong quân đội
Chính sách xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, duy trì và phát triển nhân lực kỹ thuật quân sự trong bối cảnh hiện đại hóa quân đội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tốc độ phát triển và hiệu quả hoạt động khoa học kỹ thuật quân sự phụ thuộc lớn vào việc bố trí, thực hiện các chính sách xã hội hợp lý đối với nguồn nhân lực kỹ thuật trong quân đội. Việc đào tạo, bố trí, sử dụng nhân lực phù hợp, quan tâm thực hiện các chế độ, chính sách phúc lợi hợp lý, chính sách hậu phương quân đội, bảo đảm điều kiện đời sống, làm việc tốt, khuyến khích sáng tạo và điều kiện phát triển sự nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kỹ thuật trong quân đội.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định, cần “Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thoả đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng”(6). Vì vậy, việc bố trí, sử dụng hợp lý, cùng với việc đãi ngộ xứng đáng về vật chất và tinh thần đối với nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự là những vấn đề quan trọng nhằm phát huy tối đa năng lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm, tâm huyết gắn bó với nghề nghiệp.
Việc phát hiện, quan tâm bồi dưỡng, bố trí, sử dụng nguồn nhân lực kỹ thuật để phát huy tài năng của họ trong lĩnh vực kỹ thuật không chỉ thể hiện ở quan điểm, chủ trương mà phải được thực hiện thông qua các cơ chế, chính sách cụ thể về đãi ngộ cụ thể, hỗ trợ trong công việc và cuộc sống. Có cơ chế hỗ trợ cho các sáng kiến đổi mới sáng tạo được công bố, ứng dụng vào trong thực tiễn, đồng thời có các chính sách hỗ trợ, khen thưởng, tôn vinh thỏa đáng. Xây dựng, ban hành chế độ công tác, nghiên cứu khoa học hợp lý, sát với nhiệm vụ, các đối tượng, cụ thể hóa các quy định, định mức làm việc cho cán bộ, nhân viên kỹ thuật theo từng cấp.
Bốn là, tạo dựng môi trường học tập, nghiên cứu khoa học bảo đảm sự dân chủ, đổi mới và sáng tạo
Xây dựng môi trường học tập và nghiên cứu khoa học dân chủ, đổi mới, sáng tạo là yếu tố quan trọng để phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật chất lượng cao, đặc biệt trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự. Tập trung hiện đại hóa cơ sở vật chất và trang thiết bị đào tạo nhằm thúc đẩy chất lượng giáo dục, huấn luyện. Việc đầu tư vào hạ tầng, khoa học công nghệ đào tạo giúp nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng dạy và thực hành, bảo đảm người học có đủ kiến thức và kỹ năng để làm chủ vũ khí, trang bị hiện có và phát triển mới; tập trung xây dựng hệ thống cơ sở vật chất đào tạo, đặc biệt là tại các học viện, nhà trường quân đội, xây dựng phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu chuyên sâu, thao trường, bãi tập theo hướng hiện đại. Tích cực nghiên cứu ứng dụng công nghệ số vào đào tạo (tập trung vào các học viện, nhà trường và các viện nghiên cứu) như: đào tạo trực tuyến, ứng dụng mô phỏng, thực tế ảo, tích hợp công nghệ Big data, AI vào huấn luyện…
Trong môi trường nghiên cứu khoa học, qua việc làm, hoạt động cụ thể, mỗi cán bộ, nhân viên kỹ thuật sẽ tiếp nhận những chuẩn mực xã hội và nghề nghiệp khoa học, kỹ thuật phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của bản thân, biến thành nhận thức, tình cảm của cá nhân. Ở trong môi trường khoa học quân sự lành mạnh, dân chủ mới tạo ra những điều kiện thuận lợi để nguồn nhân lực kỹ thuật phát huy mọi tiềm năng sáng tạo nghiên cứu khoa học và xây dựng đơn vị.
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc đẩy mạnh đổi mới sáng tạo là động lực quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển, không chỉ giúp nâng cao sức mạnh chiến đấu mà còn đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp hiện đại hóa quân đội, bảo vệ Tổ quốc. Để giải quyết tốt vấn đề này, cần thực hiện nhiều biện pháp như: xây dựng môi trường làm việc, môi trường sống, môi trường văn hóa lành mạnh, xây dựng cơ chế khuyến khích học tập suốt đời, xây dựng môi trường nghiên cứu sáng tạo, khuyến khích đột phá, quan tâm hỗ trợ phát triển các ý tưởng sáng tạo... Cùng với đó, cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu chuyên sâu đạt tiêu chuẩn, phát triển hệ thống thư viện số, kho dữ liệu trực tuyến để hỗ trợ nghiên cứu, cung cấp thiết bị công nghệ cao phục vụ thí nghiệm, thử nghiệm quân sự.
Năm là, phát huy tính chủ động, tự bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, khát vọng cống hiến của nguồn nhân lực kỹ thuật
Trong quân đội, đặc biệt là đối với nguồn nhân lực kỹ thuật, tính chủ động và tự bồi dưỡng phẩm chất, năng lực và khát vọng cống hiến có vai trò vô cùng quan trọng. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội trong tình hình mới, nguồn nhân lực kỹ thuật không chỉ cần có trình độ chuyên môn cao mà còn phải có phẩm chất chính trị vững vàng, có bản lĩnh, ý chí phấn đấu và tinh thần cống hiến. Thực hiện được việc này, trước hết, phải xây dựng động cơ đúng đắn, tinh thần chủ động, ý thức trách nhiệm tự học, tự rèn luyện, chủ động khắc phục khó khăn, nỗ học tập nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và không ngừng đổi mới, sáng tạo; tự bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tự tích lũy, củng cố, hoàn thiện, chủ động nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, kinh nghiệm công tác, xây dựng năng lực tư duy sáng tạo, đổi mới; tự tu dưỡng, rèn luyện hiện thực hóa khát vọng cống hiến của bản thân theo tinh thần “7 dám”: dám nghĩ để phát triển tư duy sáng tạo, đổi mới; dám thực hiện, hành động; dám chịu trách nhiệm về công việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ; dám đưa lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân; dám đối mặt với thử thách, gian khổ; dám đấu tranh chống những điều sai trái, bảo vệ lẽ phải, cái đúng và sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Kết luận
Nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự có vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức mạnh tổng hợp và tính hiện đại của quân đội, cần tiếp tục phát huy vai trò tích cực, chủ động phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng liên quan trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực kỹ thuật. Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, góp phần quan trọng thực hiện phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
_________________
Ngày nhận bài: 16-02-2025; Ngày bình duyệt: 19-02-2025; Ngày duyệt đăng: 3-3-2025.
Email tác giả: hotulsd@mta.edu.vn
(1) Báo Quân đội nhân dân: Dấu ấn công tác quân sự, quốc phòng năm 2024, https://media.qdnd.vn, ngày đăng: 26-12-2024.
(2), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.69, 167.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.231, 167.
(4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.208, 360-361.