DOI: https://doi.org/10.70786/PTOJ.5295
(LLCT) - Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài là động lực quan trọng của đất nước. Bài viết làm rõ điểm mới trong chủ trương của Đảng về phát triển nhân tài trong giáo dục, đào tạo, trên cơ sở đó đề xuất định hướng chính sách nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết 71 trong thời gian tới.
ThS HOÀNG THỊ NGÂN
TS VŨ THỊ HỒNG VÂN
TS TRẦN THỊ BÍCH HUỆ
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

1. Mở đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra sâu rộng, cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào trình độ phát triển khoa học, công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ nhân tài. Đối với Việt Nam, mục tiêu đến năm 2045, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao(1) đặt ra yêu cầu phải tạo ra những bước đột phá thực chất trong giáo dục và đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài như một trong những động lực quan trọng của quá trình phát triển. Việc tiếp tục hoàn thiện đường lối, thể chế, chính sách về giáo dục, đào tạo và phát triển nhân tài trở thành yêu cầu cấp thiết, mang tính chiến lược lâu dài.
Trên cơ sở tổng kết mười năm thực hiện Nghị quyết số 29 NQ/TW (năm 2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và cụ thể hóa tinh thần Đại hội XIII của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 71 NQ/TW ngày 22-8-2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết khẳng định “giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”(2), hướng tới xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, hội nhập, bảo đảm công bằng trong tiếp cận cơ hội học tập suốt đời cho mọi người dân. Đáng chú ý, trong tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết xác định “nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài khoa học, công nghệ trở thành động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi”(3) của đất nước. Điều đó cho thấy, phát triển nhân tài không chỉ là một nội dung cấu thành của chính sách nhân lực mà được đặt vào vị trí trung tâm trong đột phá chiến lược giáo dục và đào tạo.
Những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng về giáo dục, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ, công tác phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài ở nước ta đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra, công tác phát triển nhân tài trong hệ thống giáo dục, đào tạo vẫn còn nhiều hạn chế: thể chế, chính sách còn phân tán, thiếu cơ chế vượt trội; môi trường học thuật, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo chưa thực sự hấp dẫn; liên thông giữa các bậc học và liên kết giữa giáo dục với khoa học và công nghệ, thị trường lao động còn yếu; hiện tượng chạy theo bằng cấp, thành tích, hình thức… vẫn là rào cản đối với việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài một cách thực chất. Nếu những vấn đề mang tính căn cơ này không được giải quyết đồng bộ, thì các mục tiêu cao về nâng cao chất lượng giáo dục và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW sẽ khó có nền tảng vững chắc để hiện thực hóa.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận về phát triển nhân tài trong giáo dục và đào tạo
Trong những năm qua, vấn đề nhân tài và phát triển nhân tài đã được nhiều công trình khoa học trong nước đề cập dưới các góc độ triết học, chính trị học, quản lý công, giáo dục học. Các nghiên cứu này nhìn chung thống nhất ở một số điểm cơ bản: coi nhân tài là bộ phận tinh hoa của nguồn nhân lực, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước; phát triển nhân tài phải gắn với lợi ích quốc gia - dân tộc, được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển con người và chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Để phát triển nhân tài một cách có hiệu quả cần hình thành hệ thống chính sách đồng bộ bao quát các khâu từ phát hiện, đào tạo, sử dụng, đãi ngộ đến bảo vệ nhân tài, gắn với việc xây dựng môi trường thể chế, văn hóa - xã hội.
Một hướng tiếp cận khác tập trung định vị nhân tài trong mối quan hệ với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trước những biến động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Các công trình này thống nhất nhận định: nhân lực chất lượng cao là lực lượng tiên phong, giữ vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số; trong đó nhân tài là bộ phận tinh hoa, nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh và chỉ số sáng tạo quốc gia. Nhiều nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, gắn với phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong chu trình hình thành, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài…
Bên cạnh đó, đã có những công trình phân tích chủ trương, chính sách về đào tạo, sử dụng, thu hút nhân tài trong lĩnh vực giáo dục, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp chung. Tuy nhiên, các công trình này hoặc được thực hiện trước khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 71 - NQ/TW, hoặc chỉ tiếp cận dưới những góc độ đơn lẻ, phân tán.
Trên phương diện lý luận, các công trình trong nước đã đạt dược sự đồng thuận cao khi xác định: Quan điểm của Đảng về nhân tài là sự kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống trọng hiền tài của dân tộc. Trong các văn kiện của Đảng, nhất là từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, vấn đề nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài được khẳng định nhất quán. Trong đó, Đảng ta xác định nhân tài không tồn tại biệt lập mà luôn được đặt trong chỉnh thể chiến lược phát triển con người Việt Nam toàn diện, là hạt nhân của nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Từ những tiền đề trên, có thể hiểu: nhân tài trong giáo dục và đào tạo là những cá nhân ưu tú, hội tụ đầy đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức chuẩn mực, năng lực chuyên môn chuyên sâu và tư duy sáng tạo độc lập; có khả năng tạo ra những thành quả vượt trội, đóng góp mang tính đột phá cho sự phát triển của xã hội. Đội ngũ này được hình thành, tôi luyện và định hình chủ yếu thông qua quá trình đào tạo, rèn luyện trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Phát triển nhân tài trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo là một quá trình mang tính chiến lược, được hoạch định với mục tiêu rõ ràng và tổ chức thực hiện chặt chẽ, bao trùm toàn bộ các khâu từ phát hiện, ươm tạo, đào tạo, bồi dưỡng đến sử dụng, đãi ngộ và bảo vệ nhân tài. Trong tiến trình đó, hệ thống giáo dục và đào tạo, bao gồm giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học giữ vai trò là “vành đai đầu nguồn”, tạo lập môi trường nền tảng và có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực tinh hoa của đất nước.
Cách tiếp cận này khẳng định: Phát triển nhân tài trong lĩnh vực giáo dục không phải là một nhiệm vụ đơn lẻ, mà là một hợp phần hữu cơ trong tổng thể chiến lược phát triển con người Việt Nam toàn diện. Đây đồng thời là mắt xích then chốt trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao “tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài”(4) nhằm hiện thực hóa các định hướng chiến lược mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong thời kỳ mới.
2.2. Chủ trương mới của Đảng về phát triển nhân tài trong giáo dục và đào tạo
Nghị quyết số 71 - NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã tiếp tục khẳng định vị thế “quốc sách hàng đầu” của giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, đồng thời thẳng thắn nhìn nhận về những bất cập, yếu kém cần khắc phục. Trên cơ sở đánh giá khách quan, nghiêm túc, Nghị quyết đặt ra những yêu cầu và giải pháp mang tính đột phá với yêu cầu cao hơn cả về tư duy và hành động. Trong đó phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài được coi là một trong những trọng tâm xuyên suốt, đóng vai trò là đòn bẩy để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Thứ nhất, về quan điểm và mục tiêu, Nghị quyết 71 đã xác định phát triển nhân tài là hạt nhân chiến lược giáo dục và đào tạo. Mục tiêu chủ yếu là xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, hội nhập, biến “nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài khoa học, công nghệ trở thành động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi”(5) của quốc gia. Mục tiêu đến năm 2030, Nghị quyết đặt lộ trình đột phá về cơ cấu trình độ lao động, ưu tiên quy mô đào tạo chương trình tài năng và các ngành khoa học cơ bản, khoa học kỹ thuật. Các chỉ tiêu về thứ hạng đại học quốc tế, chỉ số phát triển con người và đổi mới sáng tạo được cụ thể hóa thành thước đo định lượng cho sự phát triển. Tầm nhìn đến năm 2045 hướng tới một hệ thống giáo dục dân hiện đại, công bằng, chất lượng, đứng vào nhóm các quốc gia hàng đầu, nơi nhân tài trở thành trụ cột quyết định đưa Việt Nam gia nhập nhóm nước phát triển, thu nhập cao. So với các văn kiện trước đây, có thể thấy Nghị quyết 71 đã cụ thể hóa hơn mối quan hệ giữa giáo dục, đào tạo với phát triển nhân tài, trong đó nhân tài không chỉ là sản phẩm tinh hoa mà còn là tiêu chí đánh giá chất lượng cao nhất của toàn hệ thống.
Thứ hai, Nghị quyết 71 đã xác lập một tư duy hệ thống về sự liên thông giữa các bậc học trong quy trình kiến tạo đội ngũ nhân tài. Theo đó, giáo dục mầm non và phổ thông là nền tảng, nơi hình thành nhân cách và phát hiện, ươm mầm các tố chất, năng khiếu, tiềm năng của học sinh. Giáo dục nghề nghiệp được định vị là khâu trọng yếu, tập trung phát triển lực lượng lao động có kỹ năng, đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hiện đại hóa đất nước. Giáo dục đại học và sau đại học giữ vai trò nòng cốt, gắn với nhiệm vụ tiên phong trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển giao tri thức. Như vậy, Nghị quyết đã kiến tạo một “dòng chảy nhân tài” xuyên suốt trong hệ thống giáo dục quốc dân. Cách nhìn này khẳng định tính chỉnh thể và sự gắn kết chặt chẽ giữa các cấp học trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực tinh hoa của quốc gia.
Thứ ba, Nghị quyết 71 đánh dấu bước chuyển tư duy quan trọng từ chú trọng phổ cập sang ưu tiên giáo dục tinh hoa và các mô hình đào tạo tài năng. Trên nền giáo dục đại chúng, Nghị quyết yêu cầu đổi mới mô hình trường chuyên, lớp chọn và chương trình chất lượng cao, các chương trình chuyên sâu ở những lĩnh vực mũi nhọn: công nghệ, kỹ thuật, toán học và các mô hình giáo dục tích hợp như STEM, STEAM và chiến lược đưa tiếng Anh trở thành một ngôn ngữ giảng dạy.
Ở bậc đại học, điểm nhấn chiến lược là việc áp dụng cơ chế đặc thù, vượt trội để xây dựng các đại học nghiên cứu đẳng cấp quốc tế và trung tâm đổi mới sáng tạo xuất sắc. Nghị quyết khuyến khích mở rộng đào tạo tài năng, liên kết quốc tế và đẩy mạnh giáo dục sau đại học gắn với nghiên cứu trong các ngành khoa học cơ bản, công nghệ then chốt.
Điểm mới so với tư duy thiên về phổ cập, mở rộng quy mô trước kia là Nghị quyết 71 đã đặt yêu cầu phát triển giáo dục tinh hoa, các mô hình, chương trình đào tạo tài năng như một cấu phần hữu cơ trong chiến lược chung, coi đó là khâu trực tiếp tạo nguồn nhân tài cho từng lĩnh vực và cho quốc gia.
Thứ tư, Nghị quyết 71 gắn phát triển nhân tài trong giáo dục và đào tạo với tiến trình thiết lập hệ sinh thái bảo đảm đồng bộ về thể chế, tài chính, nguồn nhân lực và quản trị số. Về thể chế và tài chính, Nghị quyết yêu cầu tiếp tục ưu tiên tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa để tăng cường đầu tư cho các cơ sở giáo dục chất lượng cao, hệ thống phòng thí nghiệm và trung tâm nghiên cứu trọng điểm trên nguyên tắc công bằng và định hướng xã hội chủ nghĩa. Về nguồn nhân lực, Nghị quyết nhấn mạnh xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục “bảo đảm số lượng, chất lượng, cơ cấu”(6) có chế độ, chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội đối với nhà giáo, nhất là ở vùng khó khăn và ở các cơ sở giáo dục trọng điểm; coi việc thu hút, trọng dụng đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học, cán bộ quản lý giáo dục giỏi trong và ngoài nước là một trong những giải pháp then chốt để phát triển nhân lực chất lượng cao và nhân tài.
Cùng với đó, Nghị quyết yêu cầu đẩy mạnh tự chủ và đổi mới quản trị trong các cơ sở giáo dục, trước hết là cơ sở giáo dục đại học, gắn tự chủ với trách nhiệm giải trình và nâng cao chất lượng; xây dựng hệ thống giáo dục mở, xã hội học tập, thúc đẩy học tập suốt đời; đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện. Việc phát triển hạ tầng số và nền tảng quản trị thông minh, kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế, được kỳ vọng sẽ tạo ra lực hút mạnh mẽ đối với các chuyên gia, giảng viên và sinh viên quốc tế. Nhìn từ góc độ phát triển nhân tài, những định hướng trên có ý nghĩa then chốt vì đã tạo ra một môi trường thể chế thông thoáng, một không gian học thuật, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo rộng mở để các cơ sở giáo dục phát triển và liên kết với nhau, đồng thời giúp nhân tài có cơ hội trưởng thành, cống hiến và được ghi nhận một cách xứng đáng.
Đảng ta đã có bước phát triển nhận thức quan trọng khi đặt phát triển nhân tài vào trung tâm của đột phá chiến lược giáo dục, đào tạo: xác định rõ vai trò của từng bậc học trong phát triển nhân tài; gắn mục tiêu nhân tài với các chỉ tiêu định lượng cụ thể; nhấn mạnh phát triển giáo dục tinh hoa, chương trình và cơ sở đào tạo tài năng; đồng thời thiết kế tương đối đồng bộ các điều kiện bảo đảm về thể chế, tài chính, đội ngũ, quản trị, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.
2.3. Thực trạng phát triển nhân tài trong giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay
Về kết quả đạt được, trước hết, hệ thống giáo dục và đào tạo đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, mở rộng cơ hội học tập cho người dân, hình thành một mặt bằng tri thức và kỹ năng mới của lực lượng lao động, đây là điều kiện cần để có thể phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài theo yêu cầu của Nghị quyết số 71. Mạng lưới cơ sở giáo dục được mở rộng, các cấp học, bậc học phát triển cả về quy mô và cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ lao động có bằng, chứng chỉ quý II năm 2024 đạt khoảng 28 - 28,5%(7) qua đó phản ánh sự cải thiện từng bước về mặt bằng kỹ năng của lực lượng lao động.
Ở cấp giáo dục phổ thông, hệ thống trường chuyên, lớp chọn, các chương trình chất lượng cao, chương trình dành cho học sinh năng khiếu, học sinh giỏi; các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế; các hoạt động nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường đã góp phần phát hiện, bồi dưỡng một bộ phận học sinh có năng lực nổi trội. Nhiều học sinh Việt Nam đạt giải cao tại các kỳ thi Olympic quốc tế, các cuộc thi khoa học và kỹ thuật, khởi nghiệp sáng tạo cho học sinh phổ thông; không ít em sau này trở thành những nhà khoa học, chuyên gia, doanh nhân có uy tín, là minh chứng cho kết quả của bồi dưỡng, phát triển nhân tài thông qua giáo dục và đào tạo.
Đối với giáo dục nghề nghiệp, từng bước đã hình thành một số cơ sở đào tạo nghề có uy tín, các ngành, nghề, chương trình chất lượng cao gắn với nhu cầu thị trường lao động, đóng góp vào việc cung cấp lực lượng lao động có kỹ năng cho các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu vực dịch vụ hiện đại. Theo đó, “trong năm 2023, công tác tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp ước đạt 2.295.000 người, đạt 100% kế hoạch năm, trong đó 530.000 người ở trình độ cao đẳng, trung cấp, còn lại là sơ cấp và các chương trình nghề nghiệp khác”(8), cho thấy quy mô đào tạo kỹ năng nghề tiếp tục được mở rộng gắn với nhu cầu thị trường lao động. Về giáo dục đại học, đã xuất hiện một số cơ sở giáo dục đại học hướng tới mô hình đại học nghiên cứu, đổi mới chương trình đào tạo, tăng cường nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế; một số trường đã đứng trong các bảng xếp hạng uy tín của khu vực, thế giới. Đã có 6 cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng đại học thế giới CWUR, trong đó có trường nằm trong nhóm 4,6% đại học hàng đầu thế giới(9).
Những kết quả đạt được trong thời gian qua đã tạo nền tảng ban đầu quan trọng cho việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài theo tinh thần Nghị quyết 71. Tuy nhiên, xét toàn diện, các kết quả này chủ yếu mới dừng lại ở việc mở rộng cơ hội tiếp cận và nâng cao mặt bằng chung của hệ thống giáo dục và đào tạo. Thực tế giáo dục và đào tạo nước ta vẫn còn đối diện với nhiều yêu cầu cải cách và nhiệm vụ cần tiếp tục giải quyết, cụ thể:
Thứ nhất, thể chế và chính sách phát triển nhân tài trong giáo dục và đào tạo còn phân tán, thiếu tính hệ thống, chưa tạo ra cơ chế đủ mạnh và nhất quán, thúc đẩy đột phá. Thứ hai, chất lượng và hiệu quả của các mô hình giáo dục tinh hoa, giáo dục tài năng còn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu mới. Chưa chuyển mạnh sang định hướng phát triển năng lực sáng tạo và tư duy bậc cao, các tiêu chí đánh giá hiệu quả vẫn chủ yếu gắn với kết quả thi cử ngắn hạn. Dù được đầu tư đáng kể về nguồn lực, nhưng “sứ mệnh tạo nguồn đào tạo nhân tài của trường chuyên hiện nay vẫn chưa được thể hiện rõ ràng bằng hiệu quả đầu ra thực chất”(10). Thứ ba, bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng cao và môi trường phát triển nhân tài vẫn là một vấn đề cần nỗ lực giải quyết. Thực tế cho thấy “đồng bằng sông Hồng đã đạt 100% số xã có trường học đạt chuẩn, Đông Nam Bộ đạt 98%, trong khi một số vùng như miền núi phía Bắc, Tây Nguyên vẫn thấp hơn so với mặt bằng chung cả nước”(11). Cơ hội tham gia các chương trình chất lượng cao, chương trình tài năng, hoạt động nghiên cứu khoa học, trải nghiệm quốc tế tập trung chủ yếu ở một số đô thị, trung tâm kinh tế, giáo dục lớn. Thứ tư, môi trường học thuật, nghiên cứu và quản trị trong nhiều cơ sở giáo dục chưa thực sự trở thành hệ sinh thái thuận lợi cho phát triển và trọng dụng nhân tài. Còn nặng tính hành chính, mệnh lệnh, thiếu tự chủ đi đôi với trách nhiệm giải trình; chưa thật sự khuyến khích tự do tư duy, tranh luận khoa học, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Việc thu hút, sử dụng và giữ chân đội ngũ nhà khoa học, chuyên gia giỏi, người học có tài năng trong hệ thống giáo dục và đào tạo gặp nhiều khó khăn, làm hạn chế khả năng đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài khoa học, công nghệ trở thành động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi của đất nước. Thứ năm, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, với tư cách là lực lượng giữ vai trò then chốt trong việc phát hiện, ươm mầm và bồi dưỡng nhân tài còn nhiều hạn chế cả về điều kiện bảo đảm lẫn năng lực thực thi nhiệm vụ. Bệnh hình thức trong giáo dục còn phổ biến đã cản trở việc hình thành môi trường thuận lợi cho phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài.
Những hạn chế và điểm nghẽn nêu trên cho thấy giáo dục và đào tạo chưa theo kịp yêu cầu mang tính đột phá của Nghị quyết 71-NQ/TW trong phát triển nhân tài. Các nguyên nhân chủ yếu không chỉ nằm ở điều kiện nguồn lực, mà còn bắt nguồn từ những hạn chế về nhận thức, thể chế, cơ chế tổ chức thực hiện và văn hóa sử dụng nhân tài. Điều đó đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ và căn cơ hơn để khắc phục triệt để.
2.4. Định hướng và giải pháp phát triển nhân tài trong giáo dục và đào tạo
Để thực hiện được mục tiêu mà Nghị quyết 71 - NQ/TW đề ra là xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài khoa học, công nghệ trở thành một trong những động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi của đất nước, giáo dục và đào tạo phải tạo được bước đột phá thực sự về phát triển nhân tài. Cụ thể:
Thứ nhất, thống nhất nhận thức, hoàn thiện hệ thống thể chế, xác lập khung chính sách quốc gia về phát triển nhân tài. Cần thống nhất nhận thức trong hệ thống chính trị về việc phát triển nhân tài là trọng tâm cốt lõi khi thực thi Nghị quyết 71, thay vì xem đây là nhiệm vụ riêng của các cơ sở giáo dục trọng điểm. Mọi chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải căn cứ trên nhu cầu thực tiễn về nhân tài của từng lĩnh vực để xác lập cơ chế “đặt hàng” cụ thể đối với hệ thống giáo dục và đào tạo. Trên cơ sở đó, việc xây dựng khung chính sách quốc gia về phát triển nhân tài trong giáo dục là yêu cầu cấp thiết. Khung chính sách này cần định hình rõ rệt các giai đoạn: từ phát hiện, ươm mầm, đào tạo đến trọng dụng và bảo vệ nhân tài, đi kèm với các cơ chế đặc thù tương ứng. Điểm mấu chốt là phải khẳng định vai trò “đầu nguồn” của giáo dục, từ đó tập trung nguồn lực và ưu tiên các chính sách vượt trội cho đội ngũ tinh hoa thay vì đầu tư dàn trải, nhằm tạo ra sự bứt phá thực chất cho nguồn lực quốc gia.
Thứ hai, xây dựng hệ sinh thái giáo dục tinh hoa gắn với bảo đảm công bằng về cơ hội tiếp cận. Trọng tâm của giải pháp này là đổi mới căn bản nhận thức và mô hình tổ chức trường chuyên, lớp chọn và các chương trình đào tạo năng khiếu. Theo đó, cần chuyển từ cách tiếp cận thiên về luyện thi, chạy theo thành tích sang định hướng phát triển các năng lực cốt lõi của người học, như tư duy độc lập, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp và kỹ năng công dân toàn cầu. Quy trình và tiêu chí tuyển chọn phải được chuẩn hóa, minh bạch, đồng thời tăng cường gắn kết giữa hoạt động học tập với nghiên cứu khoa học và trải nghiệm thực tiễn tại doanh nghiệp, viện nghiên cứu.
Về phương diện cấu trúc, cần hình thành mạng lưới đào tạo nhân tài theo mô hình đa tầng, bảo đảm tính liên thông chặt chẽ từ giáo dục phổ thông đến sau đại học. Trong đó, các chương trình tinh hoa ở bậc đại học giữ vai trò là “điểm hội tụ” của các nhóm nghiên cứu mạnh, còn các cấp học dưới thực hiện chức năng phát hiện sớm và cung cấp nguồn tuyển sinh chất lượng thông qua cơ chế kết nối hai chiều, liên tục.
Đáng chú ý, phát triển nhân tài phải được triển khai đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã hội. Cần thiết kế và thực thi hiệu quả các chính sách học bổng, tín dụng ưu đãi và hỗ trợ điều kiện học tập phù hợp cho học sinh, sinh viên có năng lực nổi trội ở vùng sâu, vùng xa và các trung tâm công nghiệp. Mục tiêu xuyên suốt là bảo đảm năng lực và tiềm năng cá nhân không bị cản trở bởi điều kiện kinh tế - xã hội, qua đó hiện thực hóa tinh thần nhân văn trong Nghị quyết số 71.
Hệ sinh thái giáo dục tinh hoa cần được vận hành trên nền tảng hạ tầng dữ liệu số hiện đại. Hồ sơ năng lực số của người học không chỉ phục vụ quản lý hành chính mà phải trở thành nguồn dữ liệu chiến lược, cho phép theo dõi, bồi dưỡng dài hạn và tạo điều kiện để nhân tài được phát hiện, nuôi dưỡng và phát triển toàn diện trong những môi trường thực tiễn đa dạng.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục vững mạnh gắn với đổi mới mô hình quản trị giáo dục theo hướng hiện đại, được xem là khâu đột phá then chốt để hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết số 71. Theo đó, cần đổi mới căn bản tư duy trong tuyển dụng, sử dụng và đánh giá đội ngũ nhà giáo, chuyển từ cách tiếp cận nặng về văn bằng, chứng chỉ sang đặt trọng tâm vào năng lực thực tiễn, phẩm chất nghề nghiệp và uy tín khoa học. Cùng với đó, việc cụ thể hóa các chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội về thu nhập và điều kiện làm việc là tiền đề quan trọng nhằm thu hút và giữ chân đội ngũ giảng dạy, nghiên cứu có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu đào tạo và bồi dưỡng nhân tài.
Cùng với việc phát huy nguồn lực trong nước, cần thiết lập các cơ chế linh hoạt, thông thoáng để thu hút các nhà khoa học, chuyên gia quốc tế và đội ngũ trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia trực tiếp vào hoạt động giáo dục, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Chính sách đãi ngộ phải bảo đảm tính cạnh tranh, minh bạch và gắn chặt với kết quả, sản phẩm khoa học - công nghệ cụ thể cũng như mức độ đóng góp thực chất vào quá trình phát triển nhân tài.
Thứ tư, xây dựng và lan tỏa văn hóa trọng dụng nhân tài trong giáo dục và đào tạo, chuyển mạnh sang cơ chế đánh giá dựa trên năng lực thực chất và hiệu quả cống hiến. Văn hóa trọng dụng nhân tài giữ vai trò nền tảng, quyết định hiệu lực và hiệu quả của toàn bộ hệ thống cơ chế, chính sách về phát triển nhân tài. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, yêu cầu này trước hết đòi hỏi phải kiên quyết khắc phục những khuyết điểm như tâm lý coi trọng danh vị, thói quen đề cao bằng cấp, hay tình trạng chạy theo hình thức, thành tích; từ đó, chuyển mạnh sang đánh giá con người trên cơ sở năng lực, phẩm chất, sản phẩm lao động và hiệu quả cống hiến.
Trên cơ sở đó, cần xây dựng hệ thống tiêu chí, công cụ đánh giá, xếp hạng và tôn vinh đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học, cán bộ quản lý giáo dục, cũng như học sinh, sinh viên tài năng, dựa vào những đóng góp cụ thể cho nhà trường, địa phương, ngành và đất nước. Việc đánh giá cần được thực hiện toàn diện, coi trọng đồng thời thành tích học thuật, kết quả nghiên cứu khoa học, sáng kiến đổi mới và các hoạt động phục vụ cộng đồng. Đặc biệt, phải hình thành cơ chế bảo vệ và khuyến khích những cá nhân dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo và dám chịu trách nhiệm, tránh để họ bị thiệt thòi hoặc cô lập trước sức ép của tư duy bình quân và tâm lý an toàn.
Trong môi trường giáo dục, vai trò và bản lĩnh của người đứng đầu có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành văn hóa trọng dụng nhân tài. Việc họ có sẵn sàng trao trọng trách cho những người có năng lực, có chính kiến và tư duy đổi mới; có dám chịu trách nhiệm để bảo vệ quan điểm chuyên môn và bảo vệ người tài trước những đánh giá cảm tính, vội vã hay không, chính là thước đo quan trọng của văn hóa trọng dụng nhân tài ở mỗi cơ sở giáo dục. Khi văn hóa trọng dụng nhân tài được xây dựng vững chắc trong toàn ngành giáo dục và đào tạo, sẽ có sức lan tỏa tích cực với xã hội, góp phần điều chỉnh hệ giá trị và chuẩn mực đánh giá nhân lực theo hướng đề cao thực tài, thực học và hiệu quả cống hiến, qua đó tạo động lực mạnh mẽ cho cả người dạy và người học nỗ lực vươn lên, cống hiến nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển đất nước.
3. Kết luận
Nghị quyết số 71-NQ/TW đã đặt giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ vào vị trí đột phá chiến lược, coi phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài là động lực cốt lõi của phát triển đất nước. Từ yêu cầu phát triển nhân tài, việc hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 71 đòi hỏi phải chuyển mạnh từ tư duy phát triển giáo dục theo chiều rộng sang cách tiếp cận dựa trên chất lượng, năng lực và hiệu quả cống hiến, được bảo đảm bằng tư duy thể chế phù hợp và cơ chế chính sách đủ mạnh. Đây chính là điều kiện then chốt để giáo dục và đào tạo thực sự phát huy vai trò nền tảng thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới.
Những định hướng và giải pháp nêu trên được triển khai đồng bộ, quyết liệt và sáng tạo trên nền tảng quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết số 71, sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển nhân tài trong giáo dục và đào tạo, qua đó hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.
_________________
Ngày nhận bài: 14-12-2025; Ngày bình duyệt: 24-12-2025; Ngày duyệt đăng: 26-12-2025.
Email: hoangngan0376@gmail.com
Nghiên cứu này được Đại học Công nghiệp Hà Nội tài trợ kinh phí, thuộc đề tài khoa học “ Chính sách thu hút nhân tài trong khu vực công của một số nước châu Á và gợi mở cho Việt Nam hiện nay” (Mã số: HĐ76-2024-RD/HĐ-ĐHCN)
(1), (4) Xem ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.112, 203, 204.
(2), (3), (5), (6) Bộ Chính trị: Nghị quyết số 71 - NQ/TW ngày 22 - 8 - 2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
(7), (8) Ngân Anh: Tuyển sinh gần 2,3 triệu người trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, truy cập tại: https://nhandan.vn, đăng ngày 16-1-2024.
(9) Việt Nam có 6 cơ sở giáo dục đại học trong top 10 thế giới, https://vnu.edu.vn, đăng ngày 5-6-2025.
(10) Đào Mai: Sứ mệnh tạo nguồn đào tạo nhân tài của trường chuyên hiện nay chưa rõ hiệu quả, https://giaoduc.net.vn, đăng ngày 19-5-2025.
(11) Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo dục nông thôn khởi sắc từ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, https://dangcongsan.org.vn, đăng ngày 12-9-2025.