(LLCT) - Là một tôn giáo thế giới, du nhập vào Việt Nam từ sớm. Với hạnh từ, bi, hỷ, xả, Phật giáo luôn gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Ngày nay, với phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, Phật giáo Việt Nam tiếp tục tham gia vào công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, trong đó, nổi bật là Phật giáo tích cực tham gia thực hiện công tác bảo đảm an sinh xã hội. Bài viết đề cập những kết quả và những hạn chế, bất cập trong hoạt động này của Phật giáo Việt Nam hiện nay.
NGUYỄN HỮU NHƯỢNG
NCS Học viện Báo chí và Tuyên truyền
1. Chủ trương của Đảng về công tác bảo đảm an sinh xã hội
Khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác bảo đảm an sinh xã hội (ASXH), Đại hội XI của Đảng (năm 2011) chỉ rõ: “Bảo đảm an sinh xã hội... trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương”(1).
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI đề ra yêu cầu: “Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ”(2).
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ đã xây dựng Chương trình hành động với mục tiêu đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống ASXH bao phủ toàn dân nhằm bảo đảm việc làm, thu nhập tối thiểu của mỗi người dân; tăng số lượng người tham gia bảo hiểm xã hội; trợ giúp cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; bảo đảm để người dân tiếp cận được với các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu.
Nhất quán chủ trương thực hiện chính sách xã hội trong từng bước phát triển, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội”(3), đồng thời đề ra nhiều chủ trương mới nhằm huy động các nguồn lực cho lĩnh vực bảo đảm ASXH.
Tiếp tục phát triển nhận thức về vai trò của ASXH và chủ trương đẩy mạnh huy động sự tham gia của các chủ thể trong thực hiện chính sách bảo đảm ASXH, Đại hội XIII (năm 2021) khẳng định: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế”(4).
Đại hội XIII đã lần đầu tiên nêu chủ trương “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”(5). Quan điểm của Đảng về phát huy “nguồn lực của các tôn giáo” là định hướng lớn, tạo điều kiện cho các tôn giáo, trong đó có Phật giáo tham gia ngày một nhiều hơn, hiệu quả hơn, đóng góp tích cực hơn vào sự phát triển đất nước, trong đó tham gia công tác bảo đảm ASXH phù hợp với đường hướng hoạt động và là một thế mạnh của các tôn giáo.
Những chủ trương, chính sách xã hội hóa công tác từ thiện, nhân đạo là cơ sở để các tổ chức, cá nhân trực tiếp tham gia hoạt động từ thiện, nhân đạo. Đồng thời, đó cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan chức năng dễ dàng quản lý, điều hành các hoạt động từ thiện của các chủ thể liên quan. Nhờ đó, đến nay Việt Nam cơ bản hình thành hệ thống bảo đảm ASXH toàn dân khá toàn diện, nhằm bảo đảm việc làm, thu nhập cho người lao động; tham gia bảo hiểm xã hội và bảo đảm hỗ trợ kịp thời những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu thập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo,…).
2. Phật giáo Việt Nam đóng góp tích cực, hiệu quả vào thực hiện chính sách bảo đảm an ninh xã hội
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, du nhập vào Việt Nam từ lâu đời. Trải qua các thời kỳ lịch sử, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, trở thành một thành tố cấu thành nền văn hóa dân tộc.
Hiện nay, Phật giáo Việt Nam có số lượng tín đồ đông đảo. Theo thống kê của Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tính đến tháng 6-2019, số lượng tăng, ni trong cả nước là 53.941 người, gồm 38.629 tăng, ni Bắc Tông; 8.574 tăng, ni Nam Tông Khmer; 1.754 tăng, ni Nam Tông Kinh (1.100 chư tăng, 654 tu nữ); 4.984 khất sỹ; khoảng gần 50 triệu tín đồ và những người có niềm tin, yêu mến đạo Phật(6).
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã hoàn thiện nhận thức về tôn giáo và có chủ trương, chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo. Đường lối đổi mới đã thổi luồng gió mới vào các hoạt động xã hội của cá tôn giáo, trong đó có hoạt động của Phật giáo. Các phong trào hành động trong thực tế đó góp phần quan trọng và củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, nguồn lực tôn giáo được phát huy, nhất là trong công tác ASXH.
Với phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, Phật giáo Việt Nam tiếp tục tham gia vào công cuộc đổi mới đất nước thông qua các hoạt động phật sự và hoạt động xã hội hướng đến con người, vì con người.
Trong các hoạt động xã hội, hoạt động an sinh xã hội (ASXH) là điểm nổi bật, thể hiện rõ tinh thần “nhập thế giúp đời” của Phật giáo Việt Nam.
Đa số tín đồ Phật tử thấm nhuần tư tưởng từ, bi, hỷ, xả của Phật giáo; thấm nhuần tư tưởng “Cứu một người phúc đẳng hà sa”, “Dù xây chín bậc phù đồ/ Không bằng làm phúc cứu cho một người”. Đó là yếu tố nội tại để tín đồ tự tâm, tự nguyện khởi tâm công đức, tự bản thân mỗi tăng, ni đều giác ngộ được việc làm từ thiện là trách nhiệm, bổn phận của mình.
Nhiều nơi phật tử tự nguyện tìm đến các tổ chức từ thiện, tổ chức chữ thập đỏ để đóng góp, hoặc một số phật tử tập hợp nhau lại thành nhóm tham gia các hoạt động ASXH. Nhiều phật tử tham gia các hoạt động an sinh xã hội trong điều kiện kinh tế chưa thật khá giả nhưng với tinh thần “Lá rách ít đùm lá rách nhiều”, đã khởi tâm thiện tích cực tham gia.
Trên tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật và truyền thống tốt đẹp của Phật giáo Việt Nam, các hoạt động ASXH do Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức đã thu hút được sự tham gia của đông đảo phật tử và những người thiện tâm thuộc các thành phần xã hội và lứa tuổi khác nhau. Đồng thời, với hệ thống cơ sở thờ tự lớn, trải dài trên mọi miền Tổ quốc, Phật giáo Việt Nam có điều kiện thuận lợi để tổ chức nhiều hoạt động bảo đảm an sinh xã hội. Đây là một lợi thế để Giáo hội Phật giáo có thể tổ chức hoạt động từ thiện mà không phải tổ chức tôn giáo nào ở Việt Nam cũng có được.
Bên cạnh đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam có mối quan hệ rộng rãi với các tổ chức và cá nhân có tấm lòng từ thiện ở trong và ngoài nước để vận động, hỗ trợ cho các chương trình từ thiện mà Giáo hội khởi xướng. Bằng những hành động cụ thể của mình, Phật giáo đã lôi cuốn được các tầng lớp nhân dân làm theo dễ dàng hơn. Ngoài ra, các vị tăng, ni, phật tử bằng hạnh từ bi đã tạo được niềm tin sâu sắc cho mọi đối tượng và các “mạnh thường quần” ủng hộ. Đây là một trong những nguồn lực đặc biệt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong hoạt động an sinh xã hội hiện nay.
Phát huy những tiền đề thuận lợi, hoạt động ASXH được Giáo hội Phật giáo Việt Nam đặc biệt quan tâm và là một định hướng lớn trong hoạt động của Giáo hội Phật giáo. Trong chương trình mục tiêu, phương hướng hoạt động phật sự nhiệm kỳ IX (2022 - 2027), Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định: “Vận động tăng ni, phật tử phát huy tinh thần yêu nước, tích cực xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Hưởng ứng, tham gia các phong trào ích nước, lợi dân, ích đạo, lợi đời, cùng với đồng bào và nhân dân cả nước phấn đấu cho mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tăng ni, phật tử cả nước tích cực tham gia các phong trào bảo vệ môi sinh, môi trường sinh thái, ứng phó biến đổi khí hậu; xây dựng nếp sống mới trên địa bàn dân cư, ủng hộ quốc phòng, biên giới hải đảo, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu; tích cực trong các mặt hoạt động từ thiện xã hội”(7).
Để giúp giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội và tạo công ăn việc làm cho người lao động, Giáo hội Phật giáo đã tổ chức các trường hướng nghiệp dạy nghề và giới thiệu việc làm miễn phí cho hàng nghìn lượt học viên tham dự. Có rất nhiều cơ sở Phật giáo đã tổ chức các lớp đào tạo, dạy nghề miễn phí và giới thiệu việc làm cho học viên tại địa phương. Cả nước hiện có 10 trường dạy nghề miễn phí gồm các nghề: may, điện gia dụng, tin học, sửa chữa máy móc, cắt tóc tại các tỉnh thành trong cả nước do Ban trị sự Giáo hội Phật giáo địa phương tổ chức.
Có thể thấy rằng, những kết quả công tác giáo dục, dạy nghề của Phật giáo đã đem lại đối với xã hội là rất lớn. Các cơ sở hướng nghiệp dạy nghề của Giáo hội Phật giáo mở ra trên khắp cả nước trong những năm qua đã thu hút một số lượng đông đảo các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn tham gia học, đem đến cuộc sống ấm no cho nhiều mảnh đời bất hạnh, khó khăn trong xã hội.
Có nhiều học viên sau khi học nghề đã trở thành những lao động có tay nghề xuất sắc, làm ra được những sản phẩm có giá trị cao. Ngoài ra, còn có các lớp dạy ngoại ngữ miễn phí cho sinh viên, học sinh có hoàn cảnh khó khăn muốn nâng cao khả năng ngoại ngữ để có cơ hội việc làm tốt hơn. Bên cạnh đó, Phật giáo đã giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn sớm vượt qua và ổn định cuộc sống.
Thực hiện lời Phật dạy: “Phục vụ chúng sinh là thiết thực cúng dường chư Phật”, Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn coi công tác từ thiện xã hội là một trong những công tác phật sự trọng tâm của Giáo hội và của tăng ni, phật tử. Nhiều năm qua, công tác từ thiện đã tập trung vào hoạt động của các trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi, người già cô đơn, người tàn tật với hàng trăm cơ sở hoạt động tích cực, hiệu quả.
Hiện nay, Giáo hội có gần 170 Tuệ Tĩnh đường, 700 phòng chẩn trị y học dân tộc, 10 phòng khám đa khoa đang hoạt động có hiệu quả, mỗi năm khám và phát thuốc miễn phí cho hàng chục nghìn lượt người bệnh.
Các hoạt động khác như: Cứu trợ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt; chăm sóc người có công với đất nước; trao quà từ thiện, tặng quà trẻ em nghèo vượt khó; ủng hộ các cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, nhân dân sinh sống ở vùng biên giới, hải đảo, ngư dân bám ngư trường, tham gia gìn giữ chủ quyền biển, đảo... được tổ chức ở nhiều chùa với sự tham gia, ủng hộ của hàng trăm nghìn lượt tăng ni, phật tử.
Đặc biệt, trong đại dịch Covid-19, các cấp giáo hội chung tay góp sức cùng cả hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện các biện pháp phòng, chống, góp phần đẩy lùi dịch bệnh. Các tăng ni, phật tử đã tích cực đóng góp nguồn lực cho quỹ phòng, chống dịch Covid-19, quỹ vắcxin do Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động. Nhiều tăng ni, phật tử đã tình nguyện vào tuyến đầu chống dịch, lan tỏa bữa cơm yêu thương,… góp phần đưa cuộc sống trở lại bình an(8).
3. Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được trong tham gia thực hiện chính sách bảo đảm ASXH trên tinh thần nhân văn, hoạt động này cũng còn những hạn chế, bất cập. Vẫn còn những hành vi lợi dụng hoạt động từ thiện, nhân đạo của tăng ni, phật tử để trục lợi; huy động sự đóng góp và sử dụng nguồn huy động không đúng mục đích, hoặc chưa quan tâm đến nhu cầu, hiệu quả. Có trường hợp lợi dụng hoạt động từ thiện, nhân đạo để làm lợi cho bản thân; sử dụng các hoạt động từ thiện, nhân đạo như một cách thức để quảng bá hình ảnh cá nhân, tổ chức, không thực lòng làm từ thiện. Ngoài ra, còn xuất hiện tình trạng bớt xén tiền từ thiện, sử dụng kinh phí quyên góp để phục vụ nhu cầu cá nhân. Những hạn chế đó đã gây cản trở, giảm hiệu quả của các hoạt động ASXH, làm xuất hiện tâm lý hoài nghi đối với các hoạt động từ thiện nhân đạo do phật tử phát động.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường đã và đang có những tác động làm biến dạng các hoạt động từ thiện, nhân đạo, bảo trợ xã hội của các tôn giáo nói chung và Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói riêng. Một số hoạt động được tiến hành không vì mục tiêu trong sáng, chưa chú trọng đến mục đích bảo đảm, duy trì cuộc sống hạnh phúc, bình yên của những người yếu thế mà chỉ chú tâm đến lợi ích cá nhân(9).
Chính những hành động xấu, hành vi trục lợi cá nhân đó đã và đang gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động ASXH của Giáo hội. Điều này đã làm cho một số nhà hảo tâm nghi ngờ, không hưởng ứng các hoạt động từ thiện, nhân đạo của Giáo hội, mặc dù những hoạt động đó xuất phát từ tấm lòng từ bi bác ái, yêu thương con người.
Trong thực tế, đã và đang xuất hiện nhiều trường hợp mặc dù đã nắm được thông tin về hoạt động từ thiện, nhân đạo của các tăng ni, phật tử nhưng vì không hiểu thấu đáo, cặn kẽ nội dung nên vẫn nảy sinh tâm lý hoài nghi, ngờ vực. Thậm chí, một số nhỏ còn hoang mang không biết tấm lòng hảo tâm của bản thân có được trao tận tay những hoàn cảnh khó khăn hay được sử dụng vào mục đích cá nhân khác.
4. Một số giải pháp nhằm phát huy các nguồn lực tôn giáo trong thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội hiện nay
Trước những hạn chế, bất cập trên, để hoạt động nhân đạo, từ thiện cũng như các hoạt động tham gia bảo đảm ASXH của các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng tiếp tục phát huy hiệu quả, các cơ quan chức năng cần hoàn thiện cơ chế, chính sách về ASXH. Tăng cường xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp về ASXH, nghiên cứu sửa đổi, những nội dung không còn phù hợp, điều khoản bất cập...; rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách đã ban hành về ASXH và nghiên cứu tiếp tục ban hành mới nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện đồng bộ, nghiêm túc; xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động ASXH giữa Phật giáo với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, có chính sách ưu đãi đối với cán bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở.
Các chính sách, pháp luật về ASXH cần tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để các tổ chức xã hội, trong đó có Phật giáo phát huy được hết vai trò của mình; cần chú trọng các quy định về tiếp nhận và sử dụng nguồn tài trợ từ nước ngoài vào hoạt động từ thiện, tránh hiện tượng các cơ sở Phật giáo lúng túng khi có nguồn tài trợ từ thiện từ nước ngoài.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, chính quyền một số địa phương cần nỗ lực nhiều hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động từ thiện, nhân đạo của các tổ chức, cá nhân, trong đó có Giáo hội Phật giáo. Chẳng hạn, cần tháo gỡ khó khăn trong việc nhận nuôi trẻ mồ côi, trẻ lang thang cơ nhỡ, bởi theo quy định, nếu không ai nhận nuôi trẻ thì trung tâm nuôi dưỡng trẻ do Nhà nước lập ra là nơi đón nhận các trẻ. Các cơ sở tư nhân do các cá nhân, tổ chức xã hội thành lập phải chứng minh điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, vì vậy, những cơ sở mới được thành lập khó có thể nhận quyền nuôi dưỡng các trẻ nhỏ.
Ngoài những vấn đề trên, hoạt động ASXH của Phật giáo ở các cơ sở giáo dục còn chưa phát huy tiềm năng lợi thế bởi những hạn chế của đội ngũ nhân sự phụ trách quản lý và giáo viên lớp học tình thương không được đào tạo chuẩn. Một số giáo viên thuộc cơ sở mầm non do Giáo hội thành lập thiếu về kỹ năng sư phạm, chỉ bảo đảm được khâu chăm sóc, còn khâu giảng dạy vẫn chưa tốt. Trong công tác khám chữa bệnh mới chỉ dừng lại ở một số bệnh thông thường vì trình độ y, bác sĩ còn hạn chế.
Năng lực tổ chức của những người làm công tác bảo trợ xã hội còn yếu, thiếu tính chuyên nghiệp. Kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ của nhiều giáo viên, nhân viên trong một số cơ sở y tế, giáo dục, dạy nghề của Phật giáo còn rất có hạn. Các cơ sở dạy nghề còn phân tán, nhỏ lẻ về quy mô, cơ sở vật chất, trang thiết bị nghèo nàn, vì vậy chỉ mới đào tạo được những nghề giản đơn.
Cơ sở vật chất của các lớp học tình thương, các mái ấm tình thương nuôi dưỡng các cháu mồ côi còn thiếu thốn về mọi mặt. Các tăng, ni sinh hoạt tôn giáo tại các thiền viện, tu viện không trực tiếp thực hiện các hoạt động sản xuất nhằm tự túc kinh tế, do đó nguồn tài chính phụ thuộc vào các phật tử và những người có tâm thiện. Việc phụ thuộc vào một số “mạnh thường quân” dễ bị gián đoạn, làm cho các hoạt động từ thiện nhân đạo thiếu ổn định bởi không phải lúc nào các nhà tài trợ cũng sẵn sàng nguồn tài chính. Đã có thời điểm, ở một số nơi, nguồn tiền tài trợ khó khăn đã không bảo đảm cho các hoạt động diễn ra thường xuyên, liên tục.
Những hạn chế, bất cập trên đây là rào cản, làm hạn chế việc phát huy vai trò của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng trong công tác ASXH, cần được quan tâm và giải pháp tháo gỡ từ các cấp ủy đảng, chính quyền cũng như tổ chức giáo hội.
5. Kết luận
Trên tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật và truyền thống tốt đẹp của Phật giáo Việt Nam, trong những năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam các cấp, tăng ni, phật tử đã có nhiều hoạt động từ thiện, nhân đạo, tham gia thực hiện chính sách bảo đảm ASXH, đem lại kết quả tích cực đối với xã hội. Triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với các chính sách phù hợp, tháo gỡ những khó khăn, rào cản sẽ phát huy mạnh mẽ truyền thống và những kết quả đạt được, Phật giáo sẽ tham gia thực hiện tốt hơn nữa công tác ASXH, tiếp tục đồng hành cùng dân tộc trong công cuộc đổi mới đất nước.
_________________
Ngày nhận bài: 7-4-2024; Ngày bình duyệt: 8-8-2024; Ngày duyệt đăng: 14-9-2024.
(1), (4), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 228, 150, 171.
(2) Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 10-6-2012 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.137.
(6), (9) Dương Quang Điện (Hòa thượng thích Thanh Điện) (chủ biên): Tôn giáo với vấn đề an sinh xã hội, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr. 55, 73.
(7) https://vbgh.vn
(8) Đồng bào các tôn giáo chung tay cùng cả nước chống dịch COVID-19, http://dttg.ubdt.gov.vn/tin-tuc/dong-bao-cac-ton-giao-chung-tay-cung-ca-nuoc-chong-dich-covid-19.htm, cập nhật 24-8-2021.