(LLCT) - Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là “áng văn lập quốc vĩ đại”, kết tinh trí tuệ uyên bác, bản lĩnh, khí phách, truyền thống kiên cường, bất khuất, phản ánh giá trị văn hóa đặc sắc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, mở ra trang sử hào hùng của dân tộc, xác lập động lực to lớn, quy tụ đoàn kết lực lượng, tạo sức mạnh để chiến đấu, chiến thắng quân xâm lược, giành độc lập, tự do cho dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức sâu sắc, lan tỏa sâu rộng giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập trong giáo dục thế hệ trẻ là rất cần thiết để thúc đẩy phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng.
TS NGUYỄN THANH HẢI
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
1. Mở đầu
Thắng lợi của khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân ở Hà Nội ngày 19-8-1945 đã tạo tiền đề rất quan trọng thúc đẩy Tổng khởi nghĩa, mở ra bước ngoặt vĩ đại cho dân tộc Việt Nam. Để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng và chuẩn bị cho việc ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Trên cơ sở tình hình đấu tranh khởi nghĩa của các địa phương và Hà Nội, ngày 26-8-1945, tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội, Người chủ trì cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng để bàn những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của cách mạng, trong đó có việc chuẩn bị tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ lâm thời ra mắt nhân dân, tuyên bố độc lập của đất nước, cùng với đó là việc soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện rất hệ trọng của đất nước, nên được Hồ Chí Minh tập trung cao độ trí tuệ nghiên cứu, soạn thảo từ ngày 28-8-1945, sau đó Người mời một số đồng chí lãnh đạo đến trao đổi, góp ý vào bản thảo, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, chỉnh sửa để hoàn thiện vào ngày 31-8-1945 trình Ban Thường vụ trung ương. Ngày 02-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập trước đồng bào cả nước và thế giới, tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, xác lập vị trí của Việt Nam trên bản đồ thế giới. Bản Tuyên ngôn Độc lập cô đọng, súc tích, có tính khái quát cao, với 49 câu, 1.013 từ, kết tinh trí tuệ uyên bác, bản lĩnh, khí phách, truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường, lịch sử hào hùng, ý chí, khát vọng độc lập dân tộc và CNXH, là kết quả quá trình tư duy khoa học độc đáo, thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phản ánh giá trị văn hóa đặc sắc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, có sức sống trường tồn cùng dân tộc.
2. Nội dung
2.1. Giá trị văn hóa đặc sắc Việt Nam trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945
Thứ nhất, tinh thần yêu nước. Đây là giá trị cơ bản, quan trọng hàng đầu, được thể hiện rõ nét ngay từ phần mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, trong đó truyền tải thông điệp đanh thép với các nước trên thế giới, đó là phải tôn trọng các quyền cơ bản của con người mà các dân tộc đều được hưởng. Trước quốc dân đồng bào và quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”(1); đó là giá trị cốt lõi, bất khả xâm phạm “không ai chối cãi được”.
Giá trị yêu nước trong Tuyên ngôn Độc lập còn thể hiện ở việc khái quát truyền thống đấu tranh anh hùng bất khuất, quyết tâm sắt đá bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân, phản ánh tính sáng tạo, mang giá trị tầm nhân loại khi chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại.
Tuyên ngôn Độc lập đã vạch trần hành động xâm lược, bản chất phản động, thống trị hà khắc, tội ác dã man của thực dân Pháp, phát xít Nhật đối với nhân dân ta; qua đó, khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh, khí phách, lòng tự hào, tự tôn, truyền thống tốt đẹp của dân tộc luôn yêu chuộng hòa bình, nhưng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ các quyền thiêng liêng là độc lập, tự do, mưu cầu hạnh phúc và thành quả cách mạng của dân tộc.
Tuyên ngôn Độc lập chỉ rõ: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(2). Giá trị yêu nước còn thể hiện ở lòng căm thù giặc sâu sắc, được chuyển hóa thành hành động cách mạng, sẵn sàng đấu tranh để giữ vững quyền tự do và độc lập đã giành được: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”(3); bởi vì “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Thứ hai, tính nhân văn, khoan dung, độ lượng. Tuyên ngôn Độc lập chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc bởi nội dung hướng đến là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, khẳng định chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam với thế giới. Tuyên ngôn Độc lập đề cập đến những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của con người, đó là “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”(4), quyền bình đẳng, quyền dân tộc. Nội dung Tuyên ngôn Độc lập đã nâng tầm tư duy, đề cao vai trò con người, mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người với quyền dân tộc; khái quát “quyền con người” lên cấp độ “quyền dân tộc”, mở rộng nội hàm, phát triển tầm cao, mang tính phổ quát: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(5); bởi vì: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”(6). Để hiện thực hóa giá trị nhân văn đó, Tuyên ngôn Độc lập khẳng định với thế giới rằng, nhân dân Việt Nam đã anh dũng đứng lên đấu tranh chống xâm lược, áp bức, bóc lột, bất công, giành độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ quyền và đem lại bình đẳng cho con người.
Nội dung Tuyên ngôn Độc lập phản ánh sâu sắc giá trị khoan dung, độ lượng, truyền tải thông điệp “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”; khẳng định dân tộc ta giàu lòng nhân ái, yêu thương con người, ngay cả đối với kẻ thù, khi chúng buông súng, quy hàng thì mở lượng hiếu sinh, cho con đường hướng thiện. Mặc dù thực dân Pháp đã áp bức, bóc lột, chà đạp, cướp đi quyền con người, quyền dân tộc của người dân Việt Nam, khiến “nhà tù nhiều hơn trường học”; làm xơ xác, tiều tụy về kinh tế, cạn kiệt về tài nguyên, nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích, đời sống lầm than, làm cho “hơn hai triệu đồng bào chết đói”(7) năm 1945; thực hiện chính sách ngu dân, làm cho dân tộc ta suy nhược giống nòi; triệt tiêu tinh thần đấu tranh giành độc lập, ngăn cản thống nhất đất nước, “tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, “chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”(8); từ chối Việt Minh kêu gọi người Pháp liên minh chống Nhật, “hèn hạ quỳ gối đầu hàng” rước phát xít Nhật vào đô hộ,… “thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”(9). Song dân tộc Việt Nam vẫn nêu cao tinh thần khoan dung, độ lượng: “Đối với những người Pháp bị bắt trong lúc chiến tranh, ta phải canh phòng cẩn thận, nhưng phải đối đãi với họ cho khoan hồng. Phải làm cho thế giới, trước hết là làm cho dân Pháp biết rằng: Chúng ta là quang minh chính đại. Chúng ta chỉ đòi quyền độc lập tự do, chứ chúng ta không vì tư thù tư oán, làm cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người cướp nước”(10). Khi Nhật đảo chính, tước vũ khí quân đội Pháp ngày 09-3-1945, nhân dân ta vẫn cứu người Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật, giúp người Pháp chạy qua biên giới, bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ.
Thứ ba, về tinh thần đoàn kết dân tộc, cố kết cộng đồng. Thực tiễn đấu tranh chống ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc, cùng với quá trình lao động sản xuất, chế ngự thiên tai khắc nghiệt đã xây đắp nên tình đoàn kết, gắn bó “tối lửa tắt đèn có nhau” của dân tộc Việt Nam. Đoàn kết dân tộc, cố kết cộng đồng phản ánh truyền thống tốt đẹp, sức mạnh nội lực “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” trong đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc: “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng quyết liệt chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”(11). Sức mạnh đoàn kết dân tộc, cố kết cộng đồng đã khẳng định vị thế, bản lĩnh của dân tộc, để vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, làm nên lịch sử.
Nội dung Tuyên ngôn Độc lập thể hiện sự đoàn kết dân tộc, cố kết cộng đồng bền chặt, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta đồng tâm, hiệp lực, chung sức, đồng lòng, biến không thể thành có thể, biến khó thành dễ, nhất tề đứng lên: “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(12), giành chính quyền về tay nhân dân. Bên cạnh đó, Tuyên ngôn Độc lập còn tố cáo, phơi bày mưu đồ phá hoại khối đoàn kết của dân tộc Việt Nam để dễ bề cai trị khi thực dân Pháp: “lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân ta đoàn kết”(13). Nội dung của Tuyên ngôn Độc lập có ý nghĩa thời đại sâu sắc bởi sự lan tỏa, truyền cảm hứng, thức tỉnh các dân tộc đoàn kết, đứng lên đấu tranh vì những quyền cơ bản của con người, của dân tộc.
Thứ tư, tinh thần yêu chuộng hòa bình. Trên thế giới, hiếm có dân tộc nào phải đương đầu, chiến đấu với nhiều thế lực xâm lược và chịu nhiều đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra như dân tộc Việt Nam. Vì vậy, hơn ai hết, dân tộc Việt Nam luôn yêu chuộng, trân trọng giá trị hòa bình, trọng hòa hiếu, quyết tâm bảo vệ hòa bình. Nội dung Tuyên ngôn Độc lập tố cáo bản chất dã man, tàn bạo của chủ nghĩa thực dân xâm lược đã thực hiện những chính sách đi ngược với hòa bình, độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội; đồng thời chỉ rõ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, hiểm nguy, chiến đấu kiên cường, bền bỉ, chống lại sự nô dịch, áp bức, bất công của thực dân, giành độc lập dân tộc, đem lại cuộc sống hòa bình cho nhân dân. Nội dung Tuyên ngôn Độc lập truyền tải thông điệp hòa bình, khẳng định giá trị của độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc - khát vọng hòa bình của dân tộc ta: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”(14). Đồng thời, Tuyên ngôn Độc lập khẳng định rõ, một dân tộc có truyền thống văn hiến lâu đời, dũng cảm, kiên cường đấu tranh bảo vệ các quyền cơ bản của con người, của dân tộc, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, tất yếu dân tộc đó được hưởng hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
2.2. Giải pháp phát huy giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập trong giáo dục thế hệ trẻ
Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra ngày càng cao, trong đó thế hệ trẻ “là trụ cột để đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới”(15). Để phát huy giá trị văn hóa của Tuyên ngôn độc lập trong giáo dục, khơi nguồn, khích lệ thế hệ trẻ xung kích xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên phát triển mới, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tuyên truyền sâu rộng, nâng cao nhận thức của thế hệ trẻ về tầm vóc lịch sử, ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn Độc lập.
Bám sát thực tiễn để giáo dục thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc nội dung bất hủ, tầm vóc lịch sử, giá trị bền vững, ý nghĩa thời đại, sức sống trường tồn của Tuyên ngôn Độc lập, thấy được sự kết tinh trí tuệ, sức sáng tạo, kiên cường, dũng cảm, tự lực, tự cường, khí phách, bản lĩnh, sức mạnh Việt Nam trong đấu tranh cách mạng; nhận thức sâu sắc giá trị yêu nước, nhân văn, khoan dung độ lượng, đoàn kết, cố kết cộng đồng, yêu chuộng hòa bình đặc sắc Việt Nam.
Với giá trị văn hóa sâu sắc, tinh thần đoàn kết và khát vọng tự do, độc lập, bản Tuyên ngôn đã trở thành ngọn lửa soi đường cho các thế hệ trong hành trình bảo vệ và xây dựng đất nước.
Định hướng cho thế hệ trẻ nhận thức rõ, nội dung Tuyên ngôn Độc lập thể hiện tính khoa học của con đường cách mạng Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, là cơ sở pháp lý vững chắc để thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định quyền tự quyết dân tộc; tuyên bố với thế giới về vai trò, vị thế nước Việt Nam độc lập, có chủ quyền; đánh dấu kết thúc ách đô hộ, thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, phát xít Nhật, làm sụp đổ chế độ phong kiến suốt mấy nghìn năm ở nước ta. Tuyên truyền cho thế hệ trẻ nhận thức rõ, Tuyên ngôn Độc lập là sự kết hợp nhuần nhuyễn, biện chứng giữa truyền thống văn hóa của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại và trí tuệ thiên tài, triết lý sâu sắc, tư tưởng độc lập, tự do, tầm nhìn vượt thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh; là thành quả đấu tranh cách mạng anh dũng, bền bỉ, không ngại gian khổ, hy sinh và khát vọng độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam. Từ đó khích lệ thế hệ trẻ tiếp nối, lan tỏa sâu rộng giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập vào thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của thể hệ trẻ cần tiến hành thường xuyên, liên tục, sinh động, hấp dẫn, có chiều sâu, sát thực tiễn, thiết thực, hiệu quả. Chú trọng giáo dục ngay trong nhà trường; thông qua các hình thức đa dạng như: chương trình truyền hình, phim tài liệu, nói chuyện truyền thống, giáo dục chính trị, tuyên truyền cổ động, thông qua diễn đàn, tọa đàm, hội thảo, thi tìm hiểu, hoạt động văn hóa, sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật, sinh hoạt, hội họp,... với sự kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp truyền thống với hiện đại để giúp thế hệ trẻ hiểu sâu, nắm chắc giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập.
Thứ hai, khơi dậy mạnh mẽ, lan tỏa sâu rộng giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập vào củng cố phẩm chất, năng lực của thế hệ trẻ trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.
Tích cực lan tỏa giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập vào bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, nâng cao năng lực, trình độ của thế hệ trẻ, chuẩn bị đồng bộ “tinh thần và lực lượng”, tạo thế và lực vững chắc đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, hùng cường, thịnh vượng. Định hướng thế hệ trẻ tích cực nghiên cứu, hiểu sâu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Phát huy tinh thần, ý chí quyết tâm, sự sáng tạo trong Tuyên ngôn Độc lập vào bồi đắp thế hệ trẻ chủ động học tập, tu dưỡng, rèn luyện “nâng cao nhận thức, quyết tâm, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, thực hiện chuyển đổi số”(16); tích cực tham gia “phong trào “học tập số”, phổ cập, nâng cao kiến thức khoa học, công nghệ, kiến thức số…; các phong trào khởi nghiệp, sáng tạo, cải tiến nâng cao hiệu quả công việc, năng suất lao động, khơi dậy tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, phát huy trí tuệ Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”(17).
Khơi dậy và lan tỏa sâu rộng giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập vào định hướng thế hệ trẻ nêu cao ý chí xung kích, sáng tạo, “tăng cường ứng dụng công nghệ số, hình thành công dân số”(18), tham gia có hiệu quả “đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao”(19) đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Vận dụng hiệu quả tư tưởng độc lập, tự chủ của Tuyên ngôn Độc lập vào định hướng thế hệ trẻ ra sức cống hiến công sức, trí tuệ; chủ động “Phát triển mạnh mẽ ứng dụng trí tuệ nhân tạo dựa trên dữ liệu lớn đối với các ngành, lĩnh vực quan trọng”(20), góp phần phát triển bền vững bằng chính nội lực, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Lan tỏa sâu rộng tinh thần cách mạng, sức mạnh đoàn kết trong Tuyên ngôn Độc lập vào xây dựng ý thức, trách nhiệm của thế hệ trẻ, thực sự “là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững”(21) trong kỷ nguyên mới. Chủ động lan tỏa tinh thần mưu trí, sáng tạo, không quản gian khổ của quân dân Việt Nam được khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập vào cổ vũ, khơi dậy thế hệ trẻ khát vọng cống hiến, tự lực, tự cường, vượt qua khó khăn, “biến nguy thành cơ”, “biến không thể thành có thể”, tích cực tham gia “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng”(22).
Vận dụng sáng tạo, hiệu quả tinh thần tiên phong đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ của Tuyên ngôn Độc lập vào định hướng thế hệ trẻ “phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, kích hoạt, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực trong Nhân dân cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh, tăng cường đối ngoại và hội nhập quốc tế”(23); phát huy dân chủ, tôn trọng, bảo đảm đầy đủ quyền con người và hạnh phúc của nhân dân, thực hiện tốt phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng; tích cực tham gia “bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”(24), kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Từ nội dung về tầm nhìn chiến lược, dự báo tương lai của cách mạng, sự kết hợp yếu tố nội lực và ngoại lực, phương pháp tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong Tuyên ngôn Độc lập, định hướng thế hệ trẻ chủ động tham gia hoạt động, góp phần “Nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính đồng bộ, toàn diện, sâu rộng của hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần thiết thực xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Tranh thủ tối đa các nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát triển nhanh, bền vững”(25). Định hướng cho thế hệ trẻ nội dung, phương thức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam trong giao lưu, hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới.
Thứ ba, tạo sức mạnh tổng hợp của hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp để lan tỏa giá trị văn hóa Việt Nam của Tuyên ngôn Độc lập vào giáo dục thể hệ trẻ.
Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của hệ thống tổ chức đảng, quản lý của chính quyền, sự vào cuộc của các tổ chức đoàn thể trong xác định nội dung, phương thức lan tỏa giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập vào giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội”(26). Theo đó, hệ thống tổ chức đảng, chính quyền các cấp cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thế hệ trẻ học tập, hiểu biết sâu sắc giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập. Thường xuyên nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách, xác lập môi trường thuận lợi: “Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp; làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(27).
Phát huy sức mạnh của các tổ chức đoàn thể, nhất là Đoàn Thanh niên trong tuyên truyền, vận động, đoàn kết, tập hợp thế hệ trẻ, xây dựng chương trình hành động cách mạng thiết thực để cổ vũ, động viên, khơi nguồn sáng tạo, phát huy cao độ lòng yêu nước, nhân văn, khoan dung, độ lượng, đoàn kết, cố kết cộng đồng, yêu chuộng hòa bình trong Tuyên ngôn Độc lập vào xác định ý chí quyết tâm lập thân, lập nghiệp; chủ động ứng dụng có hiệu quả thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại, không ngừng đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số trong các hoạt động, công tác. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, chuyển hóa giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập thành “lời hiệu triệu” với nội dung, phương thức cụ thể để hướng thế hệ trẻ cống hiến công sức, trí tuệ, tiềm năng, sức sáng tạo trong mọi hoạt động; khẳng định bản lĩnh, sức mạnh tuổi trẻ, thúc đẩy phát triển bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới.
Thứ tư, đề cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của thế hệ trẻ trong chuyển hóa giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập vào tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện, hoàn thiện nhân cách, đáp ứng yêu cầu phát triển.
Đất nước bước vào kỷ nguyên mới đặt ra cho thế hệ trẻ trọng trách rất lớn, vì vậy, thế hệ trẻ cần tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, năng lực toàn diện; chủ động nghiên cứu, hiểu sâu, nắm chắc giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập, tin tưởng vững chắc vào tương lai của đất nước, cơ đồ của dân tộc, “nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, xác định rõ trách nhiệm, chủ động triển khai thực hiện”(28), xứng đáng là “thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh” trong kỷ nguyên mới.
Thường xuyên nghiên cứu, chuyển hóa giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập vào xác lập động lực mạnh mẽ để đoàn kết, tập hợp lực lượng, huy động tiềm năng sức trẻ, nhiệt huyết cách mạng tham gia phát triển kinh tế, hoạt động chính trị, xã hội; luôn xung kích tình nguyện chung tay xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an sinh xã hội…; thực hiện tốt phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ: “Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”... Tích cực đổi mới sáng tạo, góp phần “phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới”(29); hiểu rõ thuận lợi, khó khăn, thách thức, đề cao ý thức dân tộc, trách nhiệm của tuổi trẻ trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; tiếp tục cống hiến công sức, trí tuệ vào gia tăng cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước để bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc.
3. Kết luận
Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ là văn kiện lịch sử khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn là biểu tượng rực rỡ của trí tuệ, bản lĩnh và khí phách dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Với giá trị văn hóa sâu sắc, tinh thần đoàn kết và khát vọng tự do, độc lập, bản Tuyên ngôn đã trở thành ngọn lửa soi đường cho các thế hệ trong hành trình bảo vệ và xây dựng đất nước. Việc nhận thức đúng đắn và lan tỏa giá trị văn hóa của Tuyên ngôn Độc lập trong giáo dục thế hệ trẻ không chỉ là trách nhiệm lịch sử, mà còn là động lực để kiến tạo một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và phát triển bền vững.
_________________
Ngày nhận bài: 28-6-2025; Ngày bình duyệt: 03-7-2025; Ngày duyệt đăng: 28-9-2025.
Email tác giả: nguyenthanhhai111973@gmail.com
(1), (2), (3), (4), (5), (6), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.3, 3, 3, 1, 1, 1, 2, 1, 29-30, 3, 3, 1, 3.
(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, sđd, tr.1.
(15) Tổng Bí thư Tô Lâm: Tương lai cho thế hệ vươn mình, Báo Quân đội nhân dân điện tử, https://www.qdnd.vn, ngày 25-03-2025.
(16), (17), (18), (19), (20), (28), (29) ĐCSVN: Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, ngày 22-12-2024, tr.4, 4-5, 8, 7, 7, 4, 1-2.
(21), (22), (23) ĐCSVN: Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, ngày 04-5-2025, tr.2, 2, 2.
(24), (26), (27) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.287, 168, 168.
(25) Xem: ĐCSVN: Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, ngày 24-01-2025.