(LLCT) - Nguồn nhân lực là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Phát triển nguồn nhân lực là quá trình phát triển con người về mọi mặt, có phẩm chất, kỹ năng, kiến thức, trình độ, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Phát triển nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản, quyết định mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước. Bài viết làm rõ vai trò của phát triển nguồn nhân lực; vấn đề phát huy vai trò của các chủ thể trong phát triển nguồn nhân lực, từ đó đề xuất giải pháp góp phần phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
NGUYỄN VĂN HOÀN
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
1. Mở đầu
Nguồn nhân lực (NNL) là vấn đề được quan tâm nghiên cứu từ nhiều hướng tiếp cận và nhiều khía cạnh khác nhau. Con người với tư cách là nguồn lực, động lực của sự phát triển xã hội bao gồm tất cả các yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội… Nói cách khác, nguồn lực con người bao gồm các yếu tố tâm lực, thể lực, trí lực của các cá nhân trong xã hội tham gia vào hoạt động sản xuất xã hội, đóng góp vào sự phát triển đất nước.
Phát triển NNL là sự biến đổi, gia tăng về số lượng và chất lượng của các cá nhân trong xã hội tham gia vào hoạt động sản xuất xã hội, tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu NNL, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phát triển NNL được tiến hành với các nội dung cơ bản, như: số lượng, chất lượng, cơ cấu NNL; kết quả đào tạo, bồi dưỡng NNL; chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ NNL…, nhằm tạo sự chuyển biến tích cực trong phát triển NNL, góp phần đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra trong thời kỳ mới.
2. Nội dung
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
Khi nghiên cứu về con người, C.Mác và Ph.Ăngghen xuất phát từ việc nghiên cứu bản chất của con người trong tính hiện thực. Các ông viết: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra”(1). Đồng thời, trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, các ông khẳng định con người là sản phẩm của tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên nhưng không phụ thuộc tự nhiên, mà ngược lại, con người tác động trở lại tự nhiên, cải biến tự nhiên và tạo cho mình những điều kiện sinh tồn mới.
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, trong quá trình tồn tại và phát triển, con người cải tạo tự nhiên và hình thành, phát triển các mối quan hệ trong xã hội. Con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Những hoạt động này diễn ra hằng ngày, là một trong những tiêu chí phân biệt giữa con người với loài vật, làm phong phú bản chất người và tạo thành mối quan hệ xã hội.
Các ông cho rằng, con người luôn tồn tại, phát triển trong các mối quan hệ xã hội: “con người trong quá trình phát triển - quá trình phát triển hiện thực và có thể thấy được bằng kinh nghiệm - của họ dưới những điều kiện nhất định”(2). Đồng thời, chỉ ra vai trò sáng tạo lịch sử của con người: “Lịch sử xã hội của con người luôn luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người”(3). Khi xã hội hình thành và phát triển, con người biết cải tạo hoàn cảnh, tạo ra môi trường, điều kiện để phát triển hài hòa, toàn diện với tự nhiên và xã hội. Trong các mối quan hệ đó, con người giữ vị trí trung tâm, là chủ thể cải tạo giới tự nhiên và sáng tạo ra xã hội, đồng thời là bộ phận không thể tách rời của tự nhiên và xã hội. Phát triển con người về mọi mặt là điều kiện, tiền đề để phát triển xã hội.
Kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người, Hồ Chí Minh khẳng định con người có vai trò trung tâm, là mục tiêu và là động lực của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Do đó, Người đề ra mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công.
Trong công cuộc giải phóng dân tộc cũng như trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc phát huy nguồn lực con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Đảng ta xác định, con người luôn giữ vai trò quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đề ra yêu cầu: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”(4).
Thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tại Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta khẳng định vấn đề NNL và phát triển NNL là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(5). Bước sang thế kỷ XXI, tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng nêu rõ, cần: “Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao”(6). Tại Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”(7).
Tại Đại hội XIII, vấn đề phát triển NNL trở thành một trong ba đột phá chiến lược của sự phát triển đất nước: đột phá về thể chế, về NNL (nhất là NNL chất lượng cao) và hệ thống kết cấu hạ tầng. Đại hội yêu cầu: “ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước”(8). Đại hội XIII xác định: “… nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(9).
Những định hướng nêu trên cho thấy, phát triển NNL có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
2.2. Phát huy vai trò của các chủ thể trong phát triển nguồn nhân lực đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của phát triển NNL đối với sự phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Những năm qua, toàn hệ thống chính trị đã quan tâm, tập trung phát triển NNL và đạt được nhiều kết quả.
Thứ nhất, Đảng, Nhà nước phát huy vai trò là chủ thể lãnh đạo, điều hành hệ thống chính trị, đề ra những chủ trương, đường lối, chính sách phát triển NNL đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, Đảng chủ trương phát triển giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng đối với NNL, nhất là NNL chất lượng cao. Đồng thời, tăng cường phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất. Do đó, NNL ở nước ta trong các lĩnh vực ngày càng được tăng cường về số lượng và chất lượng.
Năm 2021, nước ta có 50,5 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm 67,7% dân số; tỷ trọng dân số tham gia lực lượng lao động ở nhóm tuổi từ 25-29 là cao nhất. Chất lượng NNL có sự cải thiện so với các năm trước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Việt Nam tăng từ 40% (năm 2010) lên 65% (năm 2020); tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc, đã qua đào tạo liên tục tăng qua các năm, từ 15,4% (năm 2011) lên 24,1% (năm 2021). Tầng lớp doanh nhân, lao động có trình độ kỹ thuật cao, có năng lực sản xuất ngày càng nhiều, đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển đất nước. Nhờ đó, trong giai đoạn 2016 - 2020, dù còn nhiều khó khăn nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cả nước vẫn đạt 6%năm. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm (giai đoạn 2011 - 2015) lên 6%/năm (giai đoạn 2016 - 2020)(10). Nhà nước tăng cường các chính sách, biện pháp phát triển văn hóa, giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống, nhân cách nhằm xây dựng NNL có phẩm chất, hình thành các giá trị đạo đức như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ, tương thân, tương ái…
Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm thu hút, sử dụng lao động, trọng dụng nhân tài. Xây dựng và hoàn thiện chính sách thu hút nhân tài; đổi mới cơ chế tuyển dụng, trọng dụng nhân tài trong từng ngành, từng lĩnh vực; tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho người lao động phát huy tiềm năng, thế mạnh trong các lĩnh vực; xây dựng, thực thi các chính sách đãi ngộ như chế độ lương, thưởng, phúc lợi. Chú trọng xây dựng cơ chế khuyến khích, thu hút người đi đào tạo ở nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài cống hiến cho phát triển đất nước.
Thứ hai, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng NNL một cách hiệu quả
Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm đào tạo NNL có phẩm chất, năng lực, trình độ, tay nghề, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới. Chú trọng nâng cao tay nghề cho người lao động trong ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần tạo nên sự thành công cho doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đã quan tâm thực hiện các chính sách đãi ngộ, tạo môi trường thuận lợi để phát huy năng lực, thu hút NNL chất lượng cao vào làm việc.
Các cơ sở giáo dục, đào tạo thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu xã hội theo hướng đa dạng ngành nghề, lĩnh vực. Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, tăng cường ứng dụng thực tiễn. Chú trọng giáo dục giá trị, nhân cách đối với NNL, góp phần hình thành, bồi dưỡng các giá trị đạo đức, nhân cách và tri thức, bảo đảm phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vấn đề phát huy vai trò của các chủ thể trong phát triển NNL còn nhiều hạn chế, thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Việc triển khai, hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở một số nơi chưa thực hiện hiệu quả, nhiều vấn đề phát sinh chưa được kịp thời giải quyết. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng chưa được chú trọng, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển NNL. Các chính sách phát triển NNL chưa thực sự tạo chuyển biến về chất; hệ thống chính sách thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn và chưa được thực thi một cách hiệu quả trên thực tế.
Một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa nhận thức rõ vai trò đột phá của NNL, phát triển NNL; chưa thực sự chủ động, còn trông chờ, ỷ lại vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, do đó hạn chế kết quả phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
Nhiều cơ sở giáo dục chưa thực hiện đồng bộ, nghiêm túc chuẩn đầu ra mà mới quan tâm đến chuẩn đầu vào. Do đó, dẫn đến tình trạng chương trình đào tạo chưa bám sát yêu cầu thực tiễn, còn nặng về lý thuyết; một số cơ sở chưa coi trọng giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng làm việc; cơ chế quản lý công tác đào tạo còn lúng túng, chồng chéo, ảnh hưởng đến chất lượng phát triển NNL.
2.3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực
Quá trình CNH, HĐH đất nước đã và đang đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh phát triển NNL, đặc biệt là NNL chất lượng cao. Để phát triển NNL đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền trong việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách phát triển NNL đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH. Chú trọng thực hiện các chính sách xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện về mọi mặt “tâm - thể - trí”, có ý thức, trách nhiệm với gia đình, cộng đồng và xã hội, có tinh thần kỷ luật cao trong lao động. Tập trung phát triển đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học, nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, quản lý, quản trị doanh nghiệp, quản lý xã hội…
Thực hiện chính sách nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, bảo đảm tăng cường các điều kiện vật chất và tinh thần, nhằm cải thiện và nâng cao trí lực, thể lực cho NNL Việt Nam.
Hai là, xây dựng chính sách đột phá nhằm thu hút, trọng dụng nhân tài. Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cần xây dựng và hoàn thiện các chính sách thu hút nhân tài; đổi mới cơ chế tuyển dụng, chế độ trọng dụng nhân tài; tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để nhân tài phát huy tiềm năng, thế mạnh. Xây dựng và thực thi các chính sách đãi ngộ đối với nhân tài, có chế độ lương, thưởng, phúc lợi phù hợp. Chú trọng xây dựng cơ chế khuyến khích, thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài về nước cống hiến.
Ba là, đổi mới căn bản và toàn diện, nâng cao hiệu quả giáo dục, đào tạo, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng để tạo NNL có phẩm chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu kỷ nguyên phát triển mới của đất nước. Các cơ sở giáo dục, đào tạo cần thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện, nâng cao chất lượng người dạy và người học; đa dạng các hình thức học tập. Tăng cường đầu tư toàn diện nhân lực, cơ sở vật chất; có chính sách ưu tiên vùng sâu, vùng xa, hải đảo còn nhiều khó khăn, đối tượng chính sách. Xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục, đào tạo ngoài công lập, thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới và đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong nước.
Bốn là, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo nhằm thúc đẩy sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57- NQ/TW ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xây dựng và đổi mới chính sách đối với NNL trong lĩnh vực khoa học, công nghệ thông qua tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và trọng dụng nhân lực chất lượng cao. Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ cá nhân, tập thể, thúc đẩy nghiên cứu, hợp tác và chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tăng cường hợp tác với các quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Liên kết, phát triển mạng lưới các nhà khoa học trong và ngoài nước phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Năm là, xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. NNL làm việc trong các lĩnh vực khác nhau cần có những chính sách về giáo dục, đào tạo, tiền lương, thưởng, phụ cấp phù hợp, gắn với sự thay đổi của nhu cầu lao động trên thị trường, tương xứng sức lao động, thành quả lao động và cống hiến, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động. Tạo môi trường làm việc bảo đảm công bằng, tăng cường kỷ luật, kỷ cương; xây dựng giá trị đạo đức, nhân văn nhằm phát triển NNL ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
3. Kết luận
NNL luôn có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với thành công của quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Xây dựng và phát triển NNL toàn diện về mọi mặt “tâm - thể - trí” là điều kiện và động lực để nước ta sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, phát triển nhanh và bền vững, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Qua đó, góp phần đưa đất nước vào kỷ nguyên phát triển mới, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
_________________
Ngày nhận bài: 07-5-2025; Ngày bình duyệt: 13-5-2025; Ngày duyệt đăng:19-5-2025.
Email tác giả: nguyenvanhoan151173@gmail.com
(1), (2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.28-29; 38.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.27, Sđd, tr.658.
(4) ĐCSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991.
(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.87.
(6) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.60, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.242.
(7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.32.
(8), (9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.203-204, 110.
(10) Xem: Báo cáo của Tổng cục Thống kê.