(LLCT) - Gần 40 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ngày càng nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về đội ngũ trí thức; cơ chế, chính sách phát huy vai trò của đội ngũ trí thức được hoàn thiện. Tuy nhiên, chủ trương, chính sách xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức cũng còn những bất cập, hạn chế trước yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Bài viết tập trung làm rõ quá trình nhận thức và chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới.
ThS ĐỖ VĂN PHƯƠNG
Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Mở đầu
Trong tiến trình đổi mới, Đảng luôn kiên định vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức; kế thừa truyền thống văn hiến, trọng hiền tài của dân tộc và đổi mới tư duy phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, ngày càng nhận thức đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về đội ngũ trí thức. Đảng đã ban hành các nghị quyết, chỉ thị về xây dựng đội ngũ trí thức và quan tâm chỉ đạo, thể chế hóa thành cơ chế, chính sách, nhất là chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, tôn vinh nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Quan điểm, chủ trương về xây dựng đội ngũ trí thức là một bộ phận lý luận về đường lối đổi mới của Đảng, thể hiện sự phát triển tư duy lý luận, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời đại mới, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế.
2. Nội dung
2.1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới
Trước đổi mới, Đảng lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng về khoa học – kỹ thuật và cách mạng về tư tưởng - văn hóa. Trong đó đề cao đấu tranh giai cấp, tiếp tục chủ trương công nông hóa trí thức; tập trung nỗ lực vào phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội và ổn định đời sống nhân dân. Các lĩnh vực lao động sản xuất vật chất được đề cao, hoạt động sáng tạo của trí thức được nhìn nhận là “lao động gián tiếp”. Cách thức quản lý, cơ chế, chính sách đối với trí thức được áp dụng tương đồng với các lực lượng lao động khác; hoạt động khoa học thường bị gò ép trong các kế hoạch hành chính cứng nhắc, mà chưa có cơ chế, chính sách phù hợp với đặc thù lao động sáng tạo; nhiều sản phẩm sáng tạo của trí thức được xác định là của chung; chưa có sự đánh giá, ghi nhận phù hợp, do đó trí thức thiếu động lực, định hướng phát triển nghề nghiệp. Đây là những rào cản tiềm năng sáng tạo của trí thức và là một trong những nguyên nhân của sự trì trệ và khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối những năm 1970 đầu 1980.
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) mở đầu công cuộc đổi mới đất nước, trong đó xác định trước hết là đổi mới tư duy, bài học kinh nghiệm hàng đầu là “lấy dân làm gốc”, đổi mới nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò và chính sách đối với các tầng lớp, giai cấp, trong đó có trí thức. Đảng nêu rõ quan điểm: “Phá bỏ những quan niệm hẹp hòi, không thấy tầng lớp trí thức ngày nay là những người lao động xã hội chủ nghĩa, được Đảng giáo dục và lãnh đạo, ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân và nông dân”(1); và khẳng định: “Điều quan trọng nhất là bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực được sử dụng đúng và phát triển”(2).
Tại Đại hội VII (năm 1991), từ nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của trí thức, Đảng xác định nhiệm vụ: “Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước”(3).
Sự phát triển nhận thức của Đảng thể hiện rõ qua việc Hội nghị Trung ương 7 khóa X ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06-8-2008 Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là lần đầu tiên có một Nghị quyết Trung ương chuyên đề về trí thức được ban hành, thể hiện bước phát triển lý luận, sự nhận thức sâu sắc và toàn diện về đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Trung ương Đảng xác định: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”(4). Vị trí, vai trò của trí thức được nhấn mạnh: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”(5). Chính thức xác định đội ngũ trí thức là một bộ phận của nguồn nhân lực tham gia trực tiếp vào lực lượng sản xuất xã hội. Đây là sự vận dụng sáng tạo luận điểm của C.Mác, khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là sự nhận thức phù hợp với phát triển nền kinh tế tri thức.
Cùng với đổi mới nhận thức về vai trò của trí thức trong phát triển kinh tế - xã hội, Đảng chỉ rõ vị trí của đội ngũ trí thức trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị”(6).
Đảng chỉ rõ xây dựng đội ngũ trí thức là nhiệm vụ của Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đồng thời, cũng yêu cầu đội ngũ trí thức cần nhận thức rõ sứ mệnh của mình trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc: “Trí thức có vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc”(7).
Do đó, cùng với nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn là yêu cầu rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Từ nhận thức sâu sắc vai trò của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng khẳng định “Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững”(8).
Cùng với nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của trí thức, Đảng yêu cầu có phương thức lãnh đạo, quản lý và cơ chế, chính sách phù hợp tính chất đặc thù của lao động trí óc, hoạt động sáng tạo của trí trí thức. Đó là chuyển từ cơ chế quản lý lao động sang định hướng tư tưởng, ban hành các chính sách thu hút, trọng dụng, trọng đãi, thi đua khen thưởng, động viên, bảo hộ bản quyền sáng tạo, tạo động lực thúc đẩy trí thức phát huy năng lực sáng tạo.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định vai trò của trí thức đối với sự phát triển của đất nước.
Vai trò của trí thức đã được khẳng định trong thực tiễn phát triển lực lượng sản xuất hiện đại và trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội: Trí thức là chủ thể đóng vai trò quyết định trong giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ - các lĩnh vực được xác định là quốc sách hàng đầu, là đột phá chiến lược; là lực lượng sản xuất trực tiếp trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trí thức văn nghệ sĩ là lực lượng chủ đạo trong xây dựng văn hóa - nền tảng tinh thần xã hội, công nghiệp văn hóa, giữ gìn bản sắc, hồn cốt dân tộc, sức mạnh mềm trong hội nhập quốc tế. Trong đối ngoại và quốc phòng an ninh, trí thức đóng góp quan trọng trong phòng ngừa từ sớm từ xa các nguy cơ an ninh truyền thống và phi truyền thống, bởi năng lực phân tích, dự báo tình hình hình, tham mưu chính sách.
2.2. Chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
Từ nhận thức ngày càng đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về đội ngũ trí thức, trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã có nhiều chủ trương về xây dựng đội ngũ trí thức và lãnh đạo thể chế hóa, ban hành nhiều chính sách, pháp luật, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Thứ nhất, thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là quốc sách hàng đầu. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, trí thức hóa công nông để có đội ngũ trí thức cách mạng toàn diện, Đảng đã lãnh đạo xây dựng chính sách xây dựng đội ngũ trí thức vừa có phẩm chất đạo đức cách mạng, vừa có trình độ chuyên môn cao, số lượng, cơ cấu phù hợp, đủ sức đảm đương sứ mệnh đưa đất nước phát triển trong thời kỳ mới.
Nghị quyết 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định triết lý giáo dục thực học, thực nghiệp, phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất. Chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đào tạo, xây dựng xã hội học tập và huy động mạnh mẽ các nguồn lực cho phát triển giáo dục đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã hội.
Đồng thời, chủ trương hội nhập quốc tế, khuyến khích giao lưu, học hỏi các nền giáo dục tiên tiến. Các đề án 322, 911 về đào tạo giảng viên, bồi dưỡng cán bộ khoa học ở nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước(9) thể hiện sự quan tâm đặc biệt và tầm nhìn chiến lược, nhằm tiếp thu tinh hoa tri thức nhân loại, tiến bộ khoa học công nghệ, xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam hội nhập quốc tế.
Từ quan điểm, chủ trương về quan tâm thu hút, trọng dụng nhân tài, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 86-KL/TW ngày 24-01-2014, Về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên xuất sắc và cán bộ khoa học trẻ, quan tâm phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài bằng cơ chế đặc biệt. Chủ trương phát hiện tài năng từ sớm được triển khai qua việc tổ chức các giải thưởng, các cuộc thi để phát hiện các nhân tố tiêu biểu, điển hình, học sinh giỏi, thủ khoa, sinh viên xuất sắc. Từ đó, có kế hoạch bồi dưỡng dài hạn, tạo nguồn chiến lược. Chủ trương trọng dụng được cụ thể hóa thành chính sách xét tuyển không qua thi tuyển, thu hút trí thức chuyên gia và kiều bào về nước, cơ chế bổ nhiệm vượt cấp,...
Chủ trương trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo, tăng tỷ lệ trẻ, nữ, tuyển dụng sinh viên có thành tích học tập xuất sắc được cụ thể hóa thành kế hoạch, quy chế, hướng dẫn. Các chính sách này vừa giúp khắc phục nguy cơ hẫng hụt đội ngũ kế cận, vừa đưa tư duy khoa học và quản trị hiện đại vào bộ máy công quyền, tạo sự đổi mới về chất lượng lãnh đạo, quản lý. Đây cũng là bước đột phá góp phần xây dựng, phát huy vai trò đội ngũ trí thức.
Thứ hai, đổi mới cơ chế tài chính và tôn vinh trí thức, thông qua việc chuyển từ cơ chế cấp phát sang cơ chế đặt hàng nghiên cứu, khoán sản phẩm, đấu thầu, đồng thời xây dựng hệ thống chính sách đãi ngộ công bằng, khuyến khích sáng tạo và tôn vinh kịp thời, xứng đáng những đóng góp xuất sắc.
Từng bước xóa bỏ cơ chế xin - cho, cào bằng trong đãi ngộ, tách bảng lương của trí thức và chuyên gia cao cấp khỏi hệ thống thang bảng lương hành chính. Tiền lương, thù lao, phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp của trí thức từng bước phản ánh giá trị lao động sáng tạo, mức độ phức tạp và hiệu quả đóng góp, thay vì chỉ dựa vào thâm niên hay chức vụ hành chính.
Đồng thời, cơ chế khoán và tự chủ tài chính được áp dụng, thể hiện qua Nghị định 115/2020/NĐ-CP ngày 25-9-2020 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; các quy định về tự chủ đối với tổ chức khoa học - công nghệ công lập. Cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng trong nghiên cứu khoa học đã giải phóng nhà khoa học khỏi những rào cản bởi thủ tục rườm rà, buộc phải không trung thực trong thanh quyết toán; cho phép chủ động sử dụng ngân sách để tối ưu hóa hiệu quả nghiên cứu.
Đặc biệt, chủ trương khuyến khích trí thức tăng thu nhập chính đáng từ lao động sáng tạo thông qua các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chia sẻ lợi nhuận từ chuyển giao công nghệ, và góp vốn bằng tài sản trí tuệ vào doanh nghiệp. Đây là động lực kinh tế thúc đẩy hoạt động sáng tạo.
Bên cạnh đó, thấu hiểu sự hy sinh thầm lặng của trí thức trong những lĩnh vực đặc thù, Đảng đã ban hành các chính sách ưu đãi riêng biệt. Nhà giáo, thầy thuốc, nghệ sĩ, nhà khoa học làm việc trong môi trường độc hại, nguy hiểm, vùng sâu, vùng xa, hải đảo... được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp và phụ cấp thâm niên so với mặt bằng chung. Bên cạnh đó, đã có sự quan tâm việc xây dựng các khu đô thị đại học, khu công nghệ cao, nhà ở công vụ để giải quyết nhu cầu “an cư lạc nghiệp” của đội ngũ trí thức trẻ, giúp yên tâm phấn đấu, cống hiến.
Song song với đãi ngộ vật chất, là chú trọng cải thiện điều kiện tinh thần (môi trường làm việc tích cực, cơ hội phát triển bản thân), ghi nhận thành tích, cống hiến... được coi trọng thông qua việc định chế hóa hệ thống giải thưởng và danh hiệu vinh dự Nhà nước. Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về Khoa học - Công nghệ, Văn học - Nghệ thuật được tổ chức xét tặng định kỳ, trở thành sự ghi nhận cao quý nhất đối với các công trình có giá trị đặc biệt xuất sắc. Hệ thống danh hiệu vinh dự như Nhà giáo Nhân dân/Ưu tú, Thầy thuốc Nhân dân/Ưu tú, Nghệ sĩ Nhân dân/Ưu tú đã trở thành niềm tự hào, là thước đo giá trị cống hiến và uy tín nghề nghiệp của trí thức trong xã hội. Việc tổ chức các lễ vinh danh trí thức tiêu biểu, gặp mặt định kỳ giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nước với đội ngũ trí thức thể hiện sự trân trọng, lắng nghe và đặt niềm tin của Đảng, đất nước đối với đội ngũ “nguyên khí quốc gia”, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa đãi ngộ vật chất và tinh thần, tạo động lực để trí thức cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhìn chung, trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức đã hình thành như một chỉnh thể thống nhất, bao quát từ việc tạo dựng môi trường thuận lợi, phát hiện và bồi dưỡng tài năng cho đến chính sách đãi ngộ và tôn vinh thành quả. Chủ trương này liên tục được bổ sung, hoàn thiện, phản ánh tư duy biện chứng và tầm nhìn chiến lược của Đảng: xây dựng đội ngũ trí thức chính là xây dựng tiềm lực quốc gia, là sự đầu tư cho phát triển của dân tộc.
Thứ ba, tạo lập môi trường dân chủ, khuyến khích trí thức lao động sáng tạo, tôn trọng tính đặc thù và những khác biệt, lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng. Chủ trương xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới là mở rộng không gian cho tư duy sáng tạo. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X và tiếp đó là Kết luận số 52-KL/TW ngày 30-5-2019 của Ban Bí thư Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã nhấn mạnh yêu cầu: “Tôn trọng và phát huy tính tự chủ, nâng cao hiệu quả trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học, chuyên gia, trí thức”(10).
Khẳng định quan điểm phát huy tính tự chủ trong đời sống học thuật không chỉ là bảo đảm quyền lợi của trí thức, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của khoa học và xã hội. Cụ thể hóa quan điểm, chủ trương này, cùng với các văn bản chỉ đạo đối với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Nhà nước đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Theo đó, trí thức được khuyến khích thảo luận thẳng thắn, đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện Đại hội Đảng, các dự án luật, cũng như các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trước khi cấp có thẩm quyền quyết định. Cơ chế này cho phép trí thức được đề xuất những kiến nghị độc lập, khách quan, khoa học, ngay cả khi ý kiến đó khác với quan điểm ban đầu của cơ quan soạn thảo.
Đây là bước tiến vượt bậc về dân chủ trong hoạt động sáng tạo của trí thức, trí thức trở thành chủ thể tham gia hoạch định chính sách, đồng thời khẳng định vai trò của họ như một chủ thể phản biện xã hội có trách nhiệm và uy tín.
Đảng khẳng định tự do học thuật là nền tảng để trí thức phát huy sáng tạo, coi trọng việc khuyến khích tìm tòi và thử nghiệm các khuynh hướng nghiên cứu mới. Chủ trương này được cụ thể hóa bằng việc xây dựng diễn đàn học thuật công khai, minh bạch, nơi trí thức có thể công bố công trình và tranh luận bình đẳng, không bị chi phối bởi định kiến chính trị hay rào cản hành chính. Với những vấn đề lý luận phức tạp, Đảng khuyến khích trao đổi, tọa đàm nội bộ trên tinh thần khoa học và xây dựng, nhằm đạt được sự thống nhất nhận thức, tránh áp đặt hay quy chụp quan điểm. Song song với đó, Đảng cũng thúc đẩy việc thành lập các quỹ khoa học và công nghệ như Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia (NAFOSTED), cùng với các tổ chức xã hội, hội nghề nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho các nhà khoa học tiếp cận nguồn lực tài chính dựa trên chất lượng đề tài thay vì dựa vào vị trí công tác hay thâm niên.
Đây là chủ trương mang tính đột phá, góp phần xóa bỏ tình trạng độc quyền trong nghiên cứu, mở ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, mọi ý tưởng sáng tạo đều có cơ hội được hiện thực hóa. Chính sách này không chỉ khuyến khích sự khác biệt trong tư duy khoa học mà còn tạo động lực để trí thức mạnh dạn theo đuổi những hướng nghiên cứu mới, phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước và góp phần làm giàu tri thức nhân loại.
2.3. Kết quả thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới
Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng được hoàn thiện và đi vào cuộc sống, tạo nên những chuyển biến mang tính cách mạng.
Một là, nhận thức của Đảng đối với trí thức có sự chuyển biến căn bản. Nghị quyết 27-NQ/TW (năm 2008) xác định trí thức là nguồn lực quan trọng, thì đến Nghị quyết 45-NQ/TW (năm 2023) Về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, đã có bước phát triển nhận thức mới: Trí thức là “nguyên khí quốc gia”, là nhân tố quan trọng nâng tầm trí tệ và sức mạnh dân tộc(11). Với quan điểm này, Đảng đã đặt trí thức ngang hàng với những yếu tố nền tảng của quốc gia, xác định trí thức là nhân tố quyết định trong việc tạo ra sức mạnh mềm, sức mạnh trí tuệ để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Quán triệt quan điểm đó, hệ thống chính trị đã có sự chuyển biến rõ rệt từ tư duy quản lý “sử dụng” trí thức sang tư duy “kiến tạo” cơ chế đặc thù để phát huy tối đa năng lực sáng tạo. Trí thức từ chỗ được xem là lực lượng phục vụ, thì nay được đặt vào vị trí trung tâm của các chính sách phát triển.
Điển hình là việc Quốc hội và Chính phủ ban hành các cơ chế đặc thù cho Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, trong đó có những chính sách mang tính đột phá như miễn thuế thu nhập, trả lương theo cơ chế thị trường cho chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực vi mạch, bán dẫn(12)¹². Đây là sự đổi mới về chính sách đãi ngộ, đồng thời, là chính sách có tính chiến lược nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh quốc tế, thu hút và giữ chân nhân tài trong những lĩnh vực công nghệ cao - những ngành được coi là “xương sống” của nền kinh tế số.
Hai là, Việt Nam từ một đất nước thiếu hụt trầm trọng đội ngũ chuyên gia, sau 40 năm đổi mới, đất nước đã vươn lên sở hữu nguồn nhân lực trí thức đông đảo, tiệm cận với các tiêu chuẩn khu vực. Đây là thành quả trực tiếp từ các chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng trong việc coi giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, đồng thời khuyến khích xã hội hóa và hội nhập quốc tế để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Cơ cấu đội ngũ trí thức Việt Nam có sự chuyển dịch mạnh sang các ngành mũi nhọn của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây là xu thế tất yếu, phản ánh sự thích ứng của đất nước trước yêu cầu hội nhập quốc tế và cạnh tranh toàn cầu, đồng thời cho thấy sự trưởng thành của chính sách phát triển nhân lực chất lượng cao đã kiên trì thực hiện trong nhiều thập kỷ. Về đội ngũ trí thức trình độ cao tiếp tục gia tăng về số lượng. Riêng năm 2024, Hội đồng Giáo sư Nhà nước đã công nhận 615 Giáo sư, Phó Giáo sư(13)¹³, bổ sung nguồn nhân lực đầu ngành cho các trường đại học và viện nghiên cứu.
Song song với đó, giáo dục đại học tiếp tục mở rộng quy mô. Năm học 2023-2024, số lượng sinh viên đại học đạt khoảng 2,2 triệu, với tỷ lệ sinh viên trên vạn dân ước đạt khoảng 200-210, tiệm cận dần mục tiêu 260 vào năm 2030(14). Con số này cho thấy sự phát triển ổn định của hệ thống giáo dục đại học, đồng thời phản ánh nỗ lực của Nhà nước trong việc tạo nguồn dự trữ chiến lược cho đội ngũ trí thức, đáp ứng nhu cầu nhân lực đa dạng của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Đặc biệt, về nhân lực mũi nhọn trong các ngành bán dẫn và trí tuệ nhân tạo (AI), Việt Nam đã có bước đi chiến lược. Thực hiện Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn đến năm 2030 (ban hành năm 2024), đất nước đang tăng tốc đào tạo nguồn nhân lực. Đến hết năm 2024, Việt Nam đã có khoảng 5.000 kỹ sư thiết kế chip, với mục tiêu đạt 50.000 kỹ sư vào năm 2030(15). Đây là lực lượng trí thức mới, trẻ, có khả năng hội nhập quốc tế sâu rộng, được kỳ vọng sẽ trở thành “xương sống” của nền kinh tế số và công nghiệp công nghệ cao trong tương lai.
Như vậy, đội ngũ trí thức đã có sự phát triển mạnh mẽ của nguồn nhân lực công nghệ cao, với sự gia tăng cả về quy mô lẫn chất lượng. Đây là nền tảng quan trọng để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia có nền kinh tế tri thức phát triển, đủ sức cạnh tranh trong kỷ nguyên số.
Ba là, đội ngũ trí thức ngày càng khẳng định vai trò là “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Đây là bước chuyển biến căn bản trong nhận thức và thực tiễn, khi lao động sáng tạo được xác định là lực lượng sản xuất trực tiếp, góp phần quyết định vào sự tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, thành tựu rực rỡ nhất là việc đưa Việt Nam từ một quốc gia thiếu lương thực trở thành cường quốc xuất khẩu gạo, cà phê, thủy sản hàng đầu thế giới. Những giống lúa mới chịu mặn, năng suất cao, cùng với các công nghệ nuôi trồng thủy sản tiên tiến, là sản phẩm kết tinh trực tiếp của lao động sáng tạo, minh chứng cho vai trò của đội ngũ trí thức nông nghiệp. Không chỉ bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, trí thức nông nghiệp còn góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên thị trường toàn cầu, tạo nguồn thu ngoại tệ lớn và cải thiện đời sống hàng triệu nông dân.
Trong các lĩnh vực mới, trí thức Việt Nam cũng đã chứng minh năng lực tiên phong. Trong y tế, đội ngũ trí thức đã làm chủ nhiều kỹ thuật khó như ghép tạng, thụ tinh trong ống nghiệm, với chi phí chỉ bằng 1/5 - 1/3 so với thế giới. Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2024 của Việt Nam xếp hạng 44/133 quốc gia (tăng 2 bậc so với năm 2023, tăng 4 bậc so với năm 2022) và Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử năm 2024 của Liên hợp quốc, Việt Nam tăng 15 bậc, từ vị trí 86/193 quốc gia lên vị trí 71/193(16). Đây là minh chứng về năng suất lao động và hàm lượng trí tuệ của trí thức đã và đang được chuyển hóa hiệu quả vào nền kinh tế.
Nền khoa học công nghệ của Việt Nam có những bước tiến mang tính đột phá trong việc làm chủ công nghệ lõi. Viettel đã chính thức thương mại hóa công nghệ 5G với thiết bị tự sản xuất, đưa Việt Nam vào nhóm ít quốc gia trên thế giới có khả năng tự chủ công nghệ viễn thông thế hệ mới. FPT đã xuất khẩu chip bán dẫn và phần mềm AI sang các thị trường G7, khẳng định năng lực hội nhập quốc tế của trí thức Việt Nam trong những lĩnh vực công nghệ cao...(17). Đây là bước chuyển mang tính lịch sử, lĩnh vực sáng tạo của Việt Nam đã thoát khỏi vai trò “gia công” để khẳng định thương hiệu “Make in Vietnam” trên thị trường toàn cầu.
Những thành tựu đó cho thấy trí thức Việt Nam không chỉ đóng góp vào sự phát triển nội tại của đất nước, mà còn từng bước đưa Việt Nam trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị đổi mới sáng tạo toàn cầu. Đây chính là khẳng định trên thực tiễn tính đúng đắn của chủ trương của Đảng trong việc coi trí thức là “nguyên khí quốc gia”, là một lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, dù đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng, song thực tiễn vẫn bộc lộ những bất cập, phản ánh rõ những thách thức mà đội ngũ trí thức đang phải đối diện. Đó là, năng lực sở hữu trí tuệ còn yếu, cơ chế tài chính còn rườm rà, thu nhập khu vực công chưa đủ cạnh tranh, dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám... Đây là những điểm nghẽn mà Đảng và Nhà nước cần tập trung giải quyết trong giai đoạn tới.
3. Kết luận
Trong 40 năm đổi mới, nhận thức của Đảng về đội ngũ trí thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc và toàn diện, thể hiện sự phát triển tư duy lý luận trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Những thành tựu xây dựng đội ngũ trí thức và đóng góp của trí thức đối với sự phát triển của đất nước là minh chứng tính đúng đắn của đường lối đổi mới, khi đặt trí thức ở vị trí trung tâm, trí thức là nguyên khí quốc gia, là chủ thể quan trọng, động lực trực tiếp của nền kinh tế tri thức, kỷ nguyên số và xác định đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chấp nhận rủi ro trong khoa học, trao quyền tự chủ thực chất và có chính sách đãi ngộ xứng đáng, bảo đảm tự do học thuật, khuyến khích làm giàu từ lao động sáng tạo và được tôn vinh đúng mức, để phát huy tối đa năng lực sáng tạo, đội ngũ trí thức sẽ trở thành động lực quan trọng đưa Việt Nam bứt phá, vươn lên ngang tầm các quốc gia phát triển, khẳng định vị thế và bản lĩnh dân tộc trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.
_________________
Ngày nhận bài: 19-11-2025; Ngày bình duyệt: 2-12-2025; Ngày duyệt đăng: 10-12-2025.
Email của tác giả: dovanphuong87@gmail.com
(1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.449, 449.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.51, Sđd, tr.141.
(4), (5), (6), (7), (8) Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06-8-2008 về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
(9) Đề án Đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước giai đoạn 2000 - 2005 (được phê duyệt tại Quyết định số 322/QĐ-TTg ngày 19-4-2000 của Thủ tướng Chính phủ); Đề án về đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010 - 2020 (Quyết định số 911/QĐ-TTg ngày 17-6-2010 của Thủ tướng Chính phủ).
(10) Ban Chấp hành Trung ương: Kết luận số 52-KL/TW ngày 30-5-2019 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
(11) Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết số 45/NQ-TW ngày 24-11-2023 về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.
(12) Quốc hội: Nghị quyết số 98/2023/QH15 ngày 24-6-2023 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.
(13) Danh sách ứng viên đạt chuẩn chức danh Giáo sư, Phó Giáo sư năm 2024, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn.
(14) Bộ Giáo dục và Đào tạo: Báo cáo tổng kết năm học 2023 - 2024.
(15) Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 1017/QĐ-TTg ngày 21-9-2024 về phê duyệt chương trình phát triển nguồn nhâ lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050.
(16) Xem: Tùng Linh: Việt Nam phải bắt kịp, tiến cùng và vượt lên trong tiến trình đổi mới sáng tạo của nhân loại, https://mpi.gov.vn
(17) Bộ Thông tin và Truyền thông: Báo cáo tình hình phát triển công nghiệp công nghệ số Việt Nam năm 2024.