Thực tiễn

Sự nghiệp vì sự tiến bộ của phụ nữ trong thời kỳ đổi mới

16/05/2025 10:46

(LLCT) - Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền tham gia và thụ hưởng của nữ giới, tuy nhiên công tác bình đẳng giới cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Do vậy, cần có một hệ thống giải pháp để phát huy vai trò, vị thế của phụ nữ Việt Nam hướng tới công bằng giới và sự phát triển bền vững, thịnh vượng của quốc gia.

TS PHÙNG THỊ AN NA
Viện Quyền con người,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Đại biểu Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia diễu hành áo dài tại phố đi bộ hồ Hoàn Kiếm (thành phố Hà Nội)_Ảnh: TTXVN

1. Mở đầu

Trong thời kỳ đổi mới, với sự mở cửa kinh tế và hội nhập quốc tế sâu rộng, phụ nữ Việt Nam đã có nhiều cơ hội nghề nghiệp, không chỉ lao động trong các ngành nghề truyền thống như nông nghiệp và dịch vụ, mà còn tham gia vào các lĩnh vực chính trị, kinh doanh và công nghệ, kỹ thuật. Đó là thành quả từ đường lối, chủ trương của Đảng trong thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ ở Việt Nam. Phụ nữ đã khẳng định được khả năng và năng lực trong nhiều lĩnh vực, trở thành nguồn lực quan trọng cho sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức trong việc bảo đảm quyền và cơ hội tham gia, thụ hưởng của nữ giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực để phát huy thế mạnh, tiềm năng của phụ nữ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.

2. Nội dung

2.1. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong thời kỳ Đổi mới

Một là, nhận thức của các chủ thể về bình đẳng giới và vai trò của hệ thống chính trị trong thúc đẩy bình đẳng giới được nâng cao. Lãnh đạo các cơ quan đảng và nhà nước thường xuyên thúc đẩy chính sách và biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới. Đặc biệt, những cam kết về việc tạo ra môi trường công bằng và bình đẳng cho phụ nữ trong các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, giáo dục và sức khỏe luôn được coi trọng.

Các tổ chức chính trị - xã hội tăng cường thúc đẩy nhận thức về bình đẳng giới thông qua các chiến dịch, chương trình giáo dục và hoạt động tư vấn nhằm nâng cao sự hiểu biết và hỗ trợ cho phụ nữ trong xã hội; kết hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước để bảo đảm các chính sách và quy định liên quan đến bình đẳng giới được thực thi một cách hiệu quả. Cán bộ, công chức ngày càng nhận thức đầy đủ về vấn đề bình đẳng giới để có thể áp dụng chính sách một cách công bằng và minh bạch, đồng thời bảo đảm không phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong quá trình thực hiện công việc. Người dân ngày càng nhận thức rõ hơn về bình đẳng giới và trách nhiệm trong việc thúc đẩy sự công bằng và bình đẳng giới trong xã hội. Các hoạt động cộng đồng để hỗ trợ phụ nữ bảo đảm bình đẳng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống được tăng cường với sự tham gia của các tổ chức, cá nhân.

Hai là, sự cam kết trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới được thông qua nhiều bộ, ngành và địa phương thực hiện bằng các nghị quyết và chương trình hành động với mục tiêu cụ thể như tăng cường quyền lợi và cơ hội cho nam và nữ, giảm bớt sự phân biệt giới tính, thúc đẩy sự tham gia bình đẳng của nam và nữ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Các nghị quyết, chương trình hành động là cơ sở để thúc đẩy tiến bộ xã hội công bằng và bền vững.

Ba là, ngày càng tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị, không chỉ giúp bảo đảm sự đa dạng và bình đẳng giới trong quản lý, phát huy tiềm năng của một nửa dân số. Việt Nam đã xây dựng nhiều chương trình, chiến lược tạo nguồn cán bộ nhằm thu hút phụ nữ, như các chương trình tuyển dụng đặc biệt dành cho phụ nữ, các chính sách hỗ trợ, các chương trình đào tạo, phát triển nghề nghiệp, phù hợp với nhu cầu và mục tiêu sự nghiệp của phụ nữ. Việt Nam đã xây dựng các chương trình bồi dưỡng cán bộ chuyên sâu cho phụ nữ, giúp họ phát triển năng lực và kỹ năng, nắm vững vai trò và trách nhiệm trong công việc. Đồng thời, nhiều mạng lưới kết nối cho phụ nữ trong lĩnh vực cán bộ đã được hình thành để họ có thể hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi từ nhau.

Giữa năm 2024, Việt Nam có 14/30 cơ quan bộ, ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ (chiếm 46,67%). Tỷ lệ nữ lãnh đạo chủ chốt trên tổng số lãnh đạo chủ chốt của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ là 18/126 (chiếm 14,29%), có 04/30 nữ bộ trưởng và tương đương (chiếm 13,3%), có 14/108 nữ thứ trưởng và tương đương (chiếm 13%)1. Về lãnh đạo nữ tại chính quyền địa phương, Việt Nam có 47/63 (chiếm 74,6%) tỉnh thành có lãnh đạo chủ chốt là nữ (gồm chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh)2.

Bốn là, công tác tuyên truyền và phổ biến luật pháp, chính sách về bình đẳng giới ngày càng được tăng cường, nhằm nâng cao nhận thức của các chủ thể về vấn đề này và khuyến khích phụ nữ tham gia vào chính trị. Việc tuyên truyền được thực hiện bằng nhiều cách thức như các buổi thảo luận, hội thảo và các hoạt động tương tác về bình đẳng giới. Sử dụng phương tiện báo chí truyền thông như truyền hình, radio, mạng xã hội để truyền tải thông điệp về bình đẳng giới và vai trò của phụ nữ trong chính trị. Các chiến dịch truyền thông thường được sử dụng để thu hút sự chú ý và làm thay đổi nhận thức. Các tài liệu giáo dục dễ hiểu, dễ tiếp cận, các quy định và chính sách liên quan đến bình đẳng giới và phụ nữ tham gia chính trị được phát hành rộng rãi trong cộng đồng thông qua trường học, các tổ chức xã hội và các cơ quan chính quyền địa phương, cơ sở.

Năm là, thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch hành động và chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ để bảo đảm tính nhất quán và hiệu quả, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ quan và tổ chức trong việc thúc đẩy bình đẳng giới. Bằng cách thiết lập các quy trình và cơ chế giám sát chặt chẽ và kiểm tra định kỳ giúp phát hiện các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện, từ đó có các biện pháp sửa đổi và điều chỉnh kế hoạch hành động để bảo đảm tiến trình.

Sáu là, chỉ thị, hướng dẫn của Tổ chức Đảng, nghị định, thông tư, hướng dẫn của cơ quan nhà nước đã được ban hành để bảo đảm sự tham gia của cán bộ nữ trong các kỳ đại hội Đảng các cấp, bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân, nhân sự chủ chốt của ủy ban nhân dân các cấp và nhân sự các bộ ngành. Hầu hết các văn bản đều bảo đảm sự công bằng và bình đẳng trong việc lựa chọn và thăng tiến của cán bộ, không phân biệt giới tính. Các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ để bảo đảm sự tham gia của nữ giới trong các vị trí lãnh đạo, quản lý được quy định cụ thể trong một số văn bản nhằm thúc đẩy sự đa dạng và phát triển bền vững trong chính trị, đồng thời tăng cường vai trò và địa vị của phụ nữ trong xã hội.

Bảy là, nhận thức về vai trò và trách nhiệm của phụ nữ trong chính trị ngày càng được nâng cao, tiền đề cho sự phát triển của đội ngũ cán bộ nữ. Khi phụ nữ cảm thấy tự tin và được khuyến khích tham gia vào các vai trò chính trị, họ có thể đóng góp tích cực và hiệu quả hơn cho quá trình ra quyết định và phát triển xã hội. Sự chủ động, tự tin và nỗ lực của cán bộ nữ không chỉ làm cho bản thân họ phát triển mà còn tạo ra một môi trường tích cực cho sự phát triển của phụ nữ trong chính trị nói chung. Bằng cách thúc đẩy sự tham gia và phát triển của phụ nữ, có thể tận dụng tối đa tài năng và tiềm năng của mọi thành viên trong xã hội. Sự phát triển về số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ nữ hiện nay là sự tiến bộ trong việc bảo đảm bình đẳng trong chính trị, góp phần vào xây dựng chủ trương, chính sách phản ánh đúng nhu cầu của cả nam và nữ, góp phần vào sự phát triển xã hội.

2.2. Một số hạn chế trong việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ

Khoảng cách giới còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đời sống tinh thần và vật chất của nữ giới vẫn còn hạn chế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa: số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ còn tương đối nhiều, nhất là nhóm dân tộc thiểu số; lao động nữ chủ yếu tập trung ở khu vực phi chính thức, dễ bị tổn thương, ít được đào tạo nghề; đa số phụ nữ làm chủ các doanh nghiệp ở quy mô nhỏ và cực nhỏ với năng lực cạnh tranh thấp. Phụ nữ và trẻ em gái vẫn là đối tượng chủ yếu của tình trạng bạo lực. Theo số liệu thống kê, năm 2023 cả nước có 3.240 vụ bạo lực gia đình, trong đó nạn nhân nữ là 2.628 người (chiếm 82,3%), nạn nhân là nam giới là 565 người (chiếm 17,7%)3.

Mặc dù đã có sự cải thiện đáng kể song vẫn tồn tại tình trạng khác biệt về công việc, mức lương và cơ hội đào tạo giữa nam và nữ. Trong một số ngành nghề như kỹ thuật, xây dựng, công nghệ thông tin, nam giới vẫn chiếm tỷ lệ lớn hơn trong lực lượng lao động, dẫn đến việc giới hạn khả năng phát triển sự nghiệp của phụ nữ. Trong khi đó, các ngành như giáo dục, y tế, dịch vụ chăm sóc cá nhân thường có sự đa dạng giới tính hơn. Có sự chênh lệch về lương và cơ hội thăng tiến giữa nam và nữ trong một số lĩnh vực, phụ nữ thường phải đối mặt với áp lực lương thấp hơn so với nam giới trong cùng một vị trí làm việc và cùng cấp bậc, thậm chí cùng trình độ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và trong các ngành nghề thủ công.

Hơn nữa, nhu cầu của phụ nữ trong cân bằng giữa công việc và gia đình có thể ảnh hưởng đến mức sống, khi họ thường phải chịu trách nhiệm chăm sóc gia đình, con cái nhiều hơn. Theo kết quả số liệu từ điều tra lao động việc làm năm 2023, số giờ trung bình làm công việc nội trợ và chăm sóc trong gia đình không được trả lương của nữ giới cao hơn 1,8 lần so với nam giới (nữ làm 16,13 giờ/tuần, nam làm 8,75 giờ/tuần)4. Phụ nữ thường phải đối mặt với áp lực gia đình cao hơn, nên ảnh hưởng đến khả năng tham gia vào các hoạt động ngoài giờ, giới hạn sự phát triển nghề nghiệp của họ.

Mặc dù các cơ hội đào tạo đã được mở rộng cho cả nam và nữ, nhưng vẫn có những hạn chế và rào cản đối với phụ nữ, đặc biệt là ở khu vực nông thôn và vùng dân tộc thiểu số. Điều này có thể do sự thiếu hiểu biết, đánh giá không công bằng, hoặc rào cản về mặt văn hóa. Trong một số trường hợp, phụ nữ không nhận được sự đồng thuận và hỗ trợ đầy đủ từ cộng đồng và gia đình trong việc tham gia vào các ngành nghề và vị trí lao động có trách nhiệm lãnh đạo cao hơn.

Về hạn chế liên quan đến chính sách, pháp luật: Các quy định liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới trong một số văn bản pháp luật còn nặng về định hướng, thiếu tính cụ thể, thiếu các biện pháp, cơ chế thực thi để bảo đảm bình đẳng giới trên thực tế.

Một số biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được nêu trong Luật Bình đẳng giới 2006 vẫn chưa được cụ thể hóa trong chính sách và pháp luật hiện hành. Ngoài ra, các chính sách hỗ trợ cho một số đối tượng đặc thù như: phụ nữ cao tuổi, khuyết tật, đơn thân, phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, phụ nữ di cư còn chưa đầy đủ… Vẫn còn một số luật và chính sách liên quan đến công tác cán bộ thiếu nhạy cảm giới, gây ra những bất lợi, rào cản, khiến nữ giới khó khăn trong tiếp cận các cơ hội lãnh đạo, quản lý (ví dụ một số điều khoản liên quan đến quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ chênh lệch về độ tuổi giữa nam và nữ...). Hệ thống pháp luật hiện hành nhìn chung còn thiếu quy định chế tài xử lý các hành vi vi phạm về bình đẳng giới. Tuy có một số văn bản quy định nhưng chưa đủ mạnh để ngăn chặn, xử lý các vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.

Vai trò, trách nhiệm của một số cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp và người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong công tác chỉ đạo, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về bình đẳng giới và mục tiêu bình đẳng giới chưa được thực hiện nghiêm túc. Nhiều kế hoạch, chương trình, giải pháp còn chung chung, thiếu tính cụ thể, chưa gắn với đặc thù của cơ quan, ngành, địa phương.

Nguồn nhân lực thực hiện công tác bình đẳng giới còn thiếu và yếu, có rất ít công chức chuyên trách về bình đẳng giới trong các cơ quan quản lý nhà nước, đa số là cán bộ kiêm nhiệm. Ở nhiều địa phương, cán bộ phụ trách công tác người có công, trẻ em, bình đẳng giới đều tập trung vào một người, một bộ phận, trong khi cá nhân và bộ phận này có thể có sự biến động liên tục, do vậy, triển khai nhiệm vụ còn thiếu hiệu quả, nhiều hạn chế và chưa thực chất.

Việt Nam đang khá khó khăn về thu thập số liệu phân tách giới, do vậy, công tác thống kê, báo cáo về tình hình thực hiện bình đẳng giới, các vấn đề liên quan đến phụ nữ, nhất là bạo lực trên cơ sở giới còn nhiều hạn chế. Thiếu các công cụ kiểm tra, giám sát là một bất lợi trong việc đánh giá hiệu quả của việc thực thi chính sách, pháp luật về bình đẳng giới tại các bộ, ngành và địa phương. Nhiều chương trình, kế hoạch về bình đẳng giới trong một số lĩnh vực triển khai chưa đồng bộ. Nhiều cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương không đạt tỷ lệ nữ lãnh đạo chủ chốt do các vị trí lãnh đạo này thường ít có biến động trong nhiệm kỳ.

Công tác lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật vẫn chưa thực sự hiệu quả; nội dung lồng ghép giới chưa được quan tâm; các báo cáo đánh giá tác động giới trong chính sách còn sơ sài, hình thức. Chưa có hướng dẫn lồng ghép giới vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm ở cấp quốc gia và địa phương theo yêu cầu của Luật Ngân sách nhà nước 2015.

2.3. Giải pháp tiếp tục tăng cường công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ trong thời gian tới

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các chủ thể về thực hiện mục tiêu bình đẳng giới

Việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục sẽ tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức và phát huy trách nhiệm, vai trò của các chủ thể thực hiện bình đẳng giới. Cần quán triệt, triển khai nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về thực hiện bình đẳng giới. Nâng cao nhận thức, ý thức chính trị trong cấp ủy, tổ chức đảng về vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo, quản lý, trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới. Chú trọng giáo dục lịch sử truyền thống, nâng cao lòng tự hào, ý chí phấn đấu, tu dưỡng, luyện rèn của các tầng lớp phụ nữ.

Thứ hai, thực hiện sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào công tác bình đẳng giới

Việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo nội dung giải phóng phụ nữ, nam nữ bình quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, bảo đảm quyền bình đẳng trên mọi phương diện, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, bình đẳng từ trong gia đình ra ngoài xã hội… Để tiếp tục vận dụng tư tưởng của Người vào thực hiện bình đẳng giới, cần thường xuyên học tập, nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, đầy đủ tư tưởng về nam nữ bình quyền và giải phóng phụ nữ. Vận dụng sáng tạo, hiệu quả tư tưởng về nam nữ bình quyền vào công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực. Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, nhằm bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, nam nữ bình quyền, đồng thời tích cực, chủ động đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù định về vấn đề giới, quyền bình đẳng.

Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả các Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định, hướng dẫn về công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm tính thống nhất về nguyên tắc bình đẳng giới, bảo đảm nhất quán trong các luật về nguyên tắc bình đẳng giới. Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chính sách về quy hoạch cán bộ đối với nữ theo hướng có trách nhiệm giới. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung một số chỉ tiêu trong Bộ chỉ tiêu thống kê giới quốc gia cho phù hợp với các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật hiện hành, những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia.

Thực hiện lồng ghép các nội dung bình đẳng giới trong xây dựng chính sách, chương trình, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và các địa phương. Đẩy mạnh việc thực hiện các nhiệm vụ về bình đẳng giới, phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới trong các chương trình mục tiêu quốc gia. Ưu tiên giải quyết vấn đề phụ nữ dân tộc thiểu số và phụ nữ ở vùng điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, chú ý đến điều kiện tiếp cận giáo dục, tăng cơ hội học tập cho trẻ em gái, học sinh nữ. Quan tâm triển khai các giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia lãnh đạo quản lý của nữ giới ở các cấp, các ngành.

Thứ tư, đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp thực hiện bình đẳng giới

Cần linh hoạt, chủ động trong việc áp dụng các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới. Sự chủ động của các cơ quan, tổ chức trong việc vận dụng chính sách của Nhà nước về công tác cán bộ nữ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì các quy định chung cần được điều chỉnh phù hợp với những điều kiện cụ thể của mỗi cơ quan, địa phương, đơn vị trên cơ sở nguyên tắc về bình đẳng giới.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới. Cần có cơ chế thanh tra liên ngành về bình đẳng giới bởi mặc dù Việt Nam có hệ thống pháp luật, chính sách về bình đẳng giới tương đối tốt nhưng việc thực thi còn chưa hiệu quả. Do vậy, cần thúc đẩy cơ chế phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới một cách nghiêm minh. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm về bình đẳng giới thuộc phạm vi, lĩnh vực quản lý; kịp thời xác minh, báo cáo những vấn đề, vụ việc đột xuất liên quan đến công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phối hợp giải quyết. Nghiên cứu xây dựng, thí điểm áp dụng bộ chỉ số xếp hạng bình đẳng giới cấp tỉnh.

Tăng cường năng lực của bộ máy làm công tác bình đẳng giới ở các cấp, trong đó chú trọng bố trí cán bộ làm công tác bình đẳng giới, tiếp tục đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ đáp ứng yêu cầu hiện nhiệm vụ. Chuyên môn hóa và chuyên nghiệp hóa bộ máy hoạt động đi đôi với việc nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác về bình đẳng giới là cần thiết trong bối cảnh nguồn nhân lực cho công tác này còn thiếu và yếu. Cần hoàn thiện theo hướng bảo đảm có cán bộ chuyên trách về bình đẳng giới cấp tỉnh/thành phố.

Thứ năm, phát huy tính tích cực, chủ động, tự tin, phấn đấu vươn lên của phụ nữ

Phát huy tính tích cực, tự tin và chủ động của phụ nữ phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Để nâng cao năng lực và sự tự tin của phụ nữ, cần tập trung thực hiện các biện pháp như: Tổ chức các khóa đào tạo và chương trình phát triển cá nhân dành riêng cho phụ nữ, tập trung vào việc phát triển kỹ năng mềm và kỹ năng chuyên môn cần thiết cho công việc và cuộc sống; bao gồm các khóa học về giao tiếp, quản lý thời gian, các khoá học từ kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng giải quyết vấn đề. Tổ chức các chương trình hướng dẫn, kèm cặp cán bộ nữ; hỗ trợ, khuyến khích, động viên. Khuyến khích phụ nữ xây dựng mạng lưới xã hội vững chắc, chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi từ nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Xây dựng môi trường học tập và làm việc tích cực, phụ nữ được khuyến khích thử nghiệm, đối mặt với thách thức và phát triển từ kinh nghiệm đó. Tạo ra một môi trường an toàn và ủng hộ, nơi họ có thể tự do biểu đạt ý kiến, cảm xúc và quan điểm của mình mà không phê phán hoặc bị từ chối. Xây dựng môi trường công bằng và không phân biệt giới tính, nơi phụ nữ được khuyến khích và đánh giá công bằng dựa trên năng lực và thành tích. Tạo ra các cơ hội thăng tiến và phát triển sự nghiệp dành cho phụ nữ trong mọi lĩnh vực. Đẩy mạnh việc phụ nữ tự tạo ra và thực hiện ý tưởng của mình. Tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ có thể tham gia vào các hoạt động khởi nghiệp và sáng tạo, cung cấp nguồn lực và hỗ trợ cần thiết để họ thành công.

3. Kết luận

Bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ là mục tiêu xuyên suốt của Đảng. Trong thời kỳ đổi mới, mặc dù có nhiều thành tựu trong công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ nhưng Việt Nam vẫn còn nhiều công việc cần làm để bảo đảm quyền bình đẳng thực sự của phụ nữ, để phụ nữ có cơ hội tham gia đầy đủ vào các khía cạnh của xã hội và nền kinh tế, được thụ hưởng mọi thành quả của quá trình phát triển.

_________________

Ngày nhận bài: 6-2-2025; Ngày bình duyệt: 19-2-2025; Ngày duyệt đăng: 12-5-2025.

Email tác giả: phunganna81@gmail.com

(1), (2), (3), (4) Chính phủ: Báo cáo số 237/BC-CP ngày 16 - 5 - 2024 về kết quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2023.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Sự nghiệp vì sự tiến bộ của phụ nữ trong thời kỳ đổi mới
    POWERED BY