(LLCT) - Xuất phát từ mục tiêu môn học, đối tượng học viên, bài viết nêu rõ, kỹ năng tương tác của giảng viên trong giảng dạy về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam là rất cần thiết. Đó là kỹ năng tiếp cận học viên, giới thiệu bài giảng; kỹ năng thuyết trình kết hợp với trao đổi, đối thoại với học viên; kỹ năng tổ chức thảo luận nhóm… Tuy nhiên, hiện nay việc sử dụng và phát huy tác dụng các kỹ năng này chưa đạt được kết quả như mong muốn. Bài viết đề xuất những giải pháp cơ bản để tăng cường áp dụng và nâng cao hiệu quả kỹ năng tương tác của giảng viên trong giảng dạy về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nói riêng.
1. Sự cần thiết kỹ năng tương tác của giảng viên trong giảng dạy về xây dựng Đảng
Cũng như tất cả các môn học, trong khi thực hiện bài giảng, giảng viên rất cần tương tác với người học, hướng tới hiệu quả, chất lượng bài giảng. Đặc điểm cơ bản của đối tượng học viên học môn xây dựng Đảng tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thuộc các hệ đào tạo, bồi dưỡng là cán bộ đi học, đa số đã và đang giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đặc điểm của đối tượng học viên Học viện là đều ít nhiều đã kinh qua, từng trải trong công tác đảng, công tác chuyên môn và hoạt động xã hội. Vì vậy, bài giảng môn xây dựng Đảng tại Học viện phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn. Để đáp ứng được yêu cầu đó, giảng viên cần thực hiện nội dung bài giảng thông qua việc sử dụng kỹ năng tương tác với học viên, giúp nâng cao niềm say mê, hứng khởi của học viên trong mỗi buổi lên lớp. Kỹ năng tương tác của giảng viên với học viên đạt đến mức cao, để lại “dấu ấn” trong học viên, giúp cho việc truyền thụ khối lượng tri thức rộng lớn, có phần “khô khan” được “mềm hóa” đối với người học.
Trong tình hình hiện nay, trước sự phát triển của cuộc cách mạng công nghệ, học viên thường xuyên tiếp cận với nhiều loại, khối lượng lớn thông tin càng cần nâng cao kỹ năng tương tác với học viên, giúp cho việc định hướng nhận thức, hình thành phương pháp tiếp cận, lựa chọn, sử dụng thông tin đa chiều một cách phù hợp, đúng đắn.
Kỹ năng tương tác của giảng viên với học viên thuộc phương pháp giảng dạy tích cực - “phương pháp giảng dạy có sự tham gia”, hướng tới phương pháp giảng dạy lấy học viên làm trung tâm, không chỉ độc thoại của giảng viên, mà cần phát huy năng lực tư duy sáng tạo của học viên.
2. Những kỹ năng cơ bản trong tương tác giữa giảng viên với học viên
Một là, kỹ năng tiếp cận học viên, giới thiệu bài giảng
Tiếp cận học viên là công việc giảng viên tiếp xúc trước khi thực hiện bài giảng. Làm thế nào để tạo sự gần gũi, thân thiện với học viên khi lần đầu mới vào lớp? Mỗi giảng viên có cách thức riêng, tùy hoàn cảnh cụ thể để lựa chọn cách tiếp cận, làm quen nhẹ nhàng, có hiệu quả. Giảng viên cần tìm hiểu sơ bộ để biết những nét cơ bản về lớp học mình sẽ giảng bài. Nếu lớp mới tập trung, mới vào học, học viên cũng chưa thật quen biết nhau, cần dành thời gian để giảng viên giới thiệu về mình, sau đó mỗi học viên tự giới thiệu. Với những lớp đã vào học lâu, có sự quen biết nhau, sau khi giới thiệu về bản thân, giảng viên mời lớp trưởng giới thiệu về thành phần lớp, chủ yếu là cơ quan cử đi học. Giảng viên cần lưu ý những thông tin cần thiết của đối tượng học viên để vận dụng, liên hệ trong bài giảng như là một phần thực tế (những nơi có nhân vật lịch sử, chính trị, những sự kiện nổi bật về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng Đảng …).
Khi thực hiện bài giảng, thông thường, giảng viên giới thiệu bài có mấy phần, gồm những nội dung chính gì. Để tạo sự thu hút đối với học viên, có nhiều cách giới thiệu về bài giảng với lớp. Căn cứ chủ đề, nội dung bài giảng và tình hình chính trị - xã hội để có cách giới thiệu cho phù hợp. Thí dụ, khi giảng bài “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng Cộng sản Việt Nam”, giảng viên có thể đưa ra một cách ngắn gọn nhất, số liệu mới nhất về tình hình tổ chức đảng và đảng viên là cán bộ diện Trung ương quản lý bị xử lý kỷ luật và đề nghị xử lý kỷ luật, đồng thời nêu tầm quan trọng, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.
Hai là, kỹ năng thuyết trình kết hợp trao đổi, đối thoại với học viên
Kỹ năng này được bàn luận nhiều và thực hiện trong phương pháp giảng dạy theo tình huống. Đó là việc giảng viên chủ động nêu câu hỏi, sự việc xảy ra trong thực tế, hoặc vấn đề cần bàn luận, tranh luận về học thuật, mời học viên trao đổi. Trong trường hợp khác, học viên nêu lên sự việc, vấn đề vướng mắc đề nghị giảng viên giải đáp.
Để hoạt động trao đổi, đối thoại (do giảng viên chủ động) thành công, giảng viên cần có sự chuẩn bị chu đáo. Giảng viên nên chọn vấn đề, lựa chọn cách nêu câu hỏi gắn với phần nội dung cụ thể của bài giảng, tạo ra sự hứng thú, chạm vào những băn khoăn, vướng mắc của học viên. Thí dụ, khi giảng bài “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng Cộng sản Việt Nam”, cần nắm chắc tình hình thực tế nơi này, nơi kia có tình trạng thường trực cấp ủy tác động không đúng vào hoạt động của ủy ban kiểm tra; kéo dài thời gian trả lời ý kiến chỉ đạo khi ủy ban kiểm tra báo cáo; khi cho ý kiến lại hướng chuyển đổi xem xét vi phạm về tham nhũng sang vi phạm về thiếu trách nhiệm, gây hậu quả nghiêm trọng… Giảng viên có thể nêu câu hỏi về việc thực hiện quy định của Điều lệ Đảng và các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng để lớp trao đổi, thảo luận.
Về trao đổi, đối thoại trong trường hợp học viên nêu câu hỏi, mong muốn giảng viên giải đáp. Trong thực tế, học viên hay e ngại nêu câu hỏi khi nghe giảng bài. Giảng viên cần khuyến khích học viên mạnh dạn bày tỏ ý kiến và chuẩn bị tâm thế đầy đủ để xử lý tình huống này.
Học viên thường nêu những câu hỏi vướng mắc trong hoạt động thực tế ở địa phương, cơ quan gắn với những sự việc cụ thể. Cách trình bày, diễn đạt của học viên có thể chưa thật rành mạch. Giảng viên cần bình tĩnh lắng nghe, phân đoạn từng nội dung hỏi, cùng với học viên nhận diện vấn đề. Giảng viên có thể mời cả lớp cùng tham gia để xác định rõ thêm vấn đề vướng mắc cần hỏi. Làm như vậy tạo sự chan hòa “cùng tham gia” của số đông, tạo sự quan tâm của cả lớp.
Cũng có học viên đặt ra những câu hỏi “hóc búa”. Giảng viên cần vận dụng linh hoạt tri thức, kinh nghiệm để giải thích, hướng dẫn cách xem xét, làm sáng tỏ vấn đề một cách khách quan, toàn diện. Trước thực tế muôn màu muôn vẻ, không phải giảng viên nào cũng nắm chắc, hiểu rõ, có câu trả lời thỏa đáng mọi vấn đề. Vì vậy, giảng viên cũng cần chuẩn bị tâm thế lắng nghe kỹ càng, cầu thị, nếu vấn đề nào đó chưa thật sự chắc chắn, cần để ngỏ, trao đổi với học viên và cả lớp sẽ về nghiên cứu thêm và trao đổi lại vào buổi học sau hoặc bằng văn bản. Tuyệt đối tránh trả lời “cho qua chuyện”, trả lời một cách khiên cưỡng, thiếu thuyết phục; càng không nên trả lời nội dung mà bản thân thấy chưa chắc chắn đúng.
Ba là, kỹ năng tổ chức thảo luận nhóm
Việc thảo luận thường thực hiện theo lịch thảo luận có tính bắt buộc trong lịch học tập và thảo luận nhóm được thực hiện trong các buổi lên lớp giảng dạy. Hai cách tổ chức thảo luận đều đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo để buổi học theo hình thức thảo luận nhóm mang lại sự hứng thú và hiệu quả.
Thảo luận nhóm trong buổi thảo luận chung cả lớp theo chương trình đã ấn định trong lịch học thường theo các câu hỏi đã nêu trong giáo trình. Tuy nhiên, để thảo luận đem lại hiệu quả cao, giúp nhận thức sâu sắc thêm nội dung bài học và khối lượng kiến thức, giảng viên có thể gợi ý, hướng dẫn vấn đề cần tập trung làm sáng tỏ. Trong những bài học và nội dung thảo luận cụ thể, giảng viên có thể nêu bổ sung câu hỏi phụ hoặc nhấn mạnh nội dung thảo luận về vận dụng vào hoàn cảnh của Việt Nam, của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Việc chia nhóm thảo luận có thể theo đơn vị tổ của lớp hoặc phân chia nhóm mới. Giảng viên nên xác định các vấn đề thảo luận cho mỗi nhóm chuẩn bị trong khoảng thời gian nhất định. Sau thảo luận nhóm, mỗi nhóm cử đại diện trao đổi, thuyết trình hoặc mời người bất kỳ trong nhóm phát biểu để khắc phục tính ỷ lại trong thời gian chuẩn bị. Giảng viên cần dự kiến các khả năng, tình huống học viên đề đạt câu hỏi mong được giải đáp để có sự chủ động.
Thực hiện thảo luận nhóm trong các buổi lên lớp giảng môn xây dựng Đảng cũng đem lại hiệu quả tốt. Thực hiện phương pháp này, trên cơ sở xác định những nội dung chủ yếu, trọng tâm của bài học mà học viên phải hiểu và nắm chắc, giảng viên xác định, phân chia thành các khối kiến thức để giao cho các nhóm trong lớp thực hành thảo luận. Giảng viên dự kiến những tình huống, diễn biến của quá trình thảo luận để chuẩn bị nội dung hướng dẫn cho phù hợp, đồng thời chuẩn bị nội dung hệ thống hóa bài giảng sau khi kết thúc thảo luận.
Áp dụng phương pháp thảo luận nhóm là sự thay đổi cách thức giảng dạy từ dành tất cả thời gian cho việc thuyết trình sang có kết hợp với trao đổi. Có thể chia thời gian của buổi lên lớp thành ba phần:
Phần thứ nhất, giảng viên nêu những nội dung, vấn đề trọng yếu của bài cần trao đổi, thảo luận và phân chia các nội dung, vấn đề thảo luận theo tổ học tập (hoặc phân chia nhóm thảo luận mới) và hướng dẫn cách thảo luận. Thời gian thực hiện công việc này khoảng 15 đến 20 phút.
Phần thứ hai, các tổ (nhóm) thảo luận. Giảng viên nên chọn vị trí phù hợp để theo dõi, nắm bắt được tình hình thảo luận của lớp (không nhất thiết tham dự với một tổ nhất định). Thời gian thảo luận khoảng 01 giờ 20 phút.
Phần thứ ba, giảng viên dành thời gian còn lại để đại diện các nhóm báo cáo kết quả thảo luận nhóm, các nhóm trao đổi, thậm chí tranh luận; giảng viên hệ thống hóa, tổng hợp nội dung kiến thức của bài học, kết hợp hướng dẫn, giải đáp những nội dung, vấn đề mà trong quá trình trao đổi, thảo luận ở nhóm chưa rõ, chưa thống nhất hoặc có vướng mắc, đề xuất. Cuối phần thứ ba, giảng viên dành khoảng 15 đến 20 phút mời học viên có đề xuất hoặc ý kiến gì thêm hoặc trao đổi, rút kinh nghiệm việc tổ chức hình thức học tập này.
Bốn là, kỹ năng sử dụng phương tiện trình chiếu
Máy chiếu là dụng cụ hỗ trợ rất quan trọng giúp việc giảng bài, thuyết trình thêm sinh động. Nhưng, nếu giảng viên thiết kế quá nhiều slide, nhiều hình ảnh minh họa, hoặc nhiều chữ… có thể phản tác dụng, người học chỉ tập trung vào việc theo dõi các hình ảnh, mà không chú ý nghe, ghi những điều giảng viên đang giảng giải. Giảng viên nên cân nhắc kỹ việc thiết kế slide sao cho đơn giản, ít màu sắc, không gây phân tán sự chú ý của người học.
3. Giải pháp tăng cường thực hiện tương tác của giảng viên với học viên
Một là, lựa chọn kỹ năng tương tác phù hợp với tình huống sư phạm
Kỹ năng tương tác của giảng viên với học viên có được là do quá trình nghiên cứu, rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm lâu dài. Cần lựa chọn việc sử dụng kỹ năng tương tác với học viên tương thích với những tình huống sư phạm cụ thể. Không có kỹ năng nào là bất định, có thể áp dụng cho mọi lúc, mọi nơi. Muốn sử dụng tốt, phát huy tính ưu việt của kỹ năng tương tác với học viên, giảng viên cần sự thử nghiệm, đúc rút kinh nghiệm về nhiều mặt. Giảng viên cần nâng cao năng lực dự đoán những khả năng, tình huống sư phạm có thể xảy ra và dự kiến việc xử lý, áp dụng kỹ năng sư phạm để giải quyết sự việc. Đối với những tình huống liên quan đến nội dung, những câu hỏi khó khi học viên thảo luận đặt ra không hoàn toàn trong bài học, môn học, giảng viên khi đó phải có cách trả lời thích hợp.
Hai là, khuyến khích học viên mạnh dạn tham gia trao đổi, tranh luận
Tương tác giữa giảng viên với học viên muốn thành công, đạt hiệu quả không thể chỉ do đơn phương từ phía giảng viên. Học viên là bộ phận cấu thành không thể thiếu trong tương tác giữa giảng viên với học viên. Vì vậy, việc động viên, khuyến khích và tổ chức để học viên mạnh dạn tham gia trao đổi, tranh luận là cần thiết.
Nhìn chung, học viên có tâm lý e ngại; kỹ năng trình bày, diễn đạt hạn chế đôi khi cũng là rào cản đáng kể khi thực hiện tương tác, bày tỏ, trao đổi ý kiến của mình. Khi thực hiện phương pháp tương tác với học viên, giảng viên cần thể hiện phong cách, cử chỉ nhẹ nhàng, gần gũi; cách đặt vấn đề đơn giản, dùng những từ ngữ dễ hiểu, không cầu kỳ, kinh viện, cố gắng tạo ra sự lôi cuốn; khích lệ học viên mạnh dạn phát biểu. Có thể sử dụng phương pháp nêu giả thiết vô lý, trái ngược để học viên tham gia, bình luận, kiến giải. Nên tìm hiểu, lựa chọn những học viên nổi trội, khuyến khích học viên phát biểu mở đầu để thúc đẩy sự sôi nổi trong thảo luận.
Ba là, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm của giảng viên
Rèn luyện kỹ năng tương tác trong giảng dạy luôn gắn liền với việc tích lũy, rèn luyện về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành. Chỉ khi nào người giảng viên am hiểu sâu sắc, nắm vững kiến thức chuyên môn mới có thể áp dụng hiệu quả kỹ năng tương tác. Trong tình hình hiện nay, yêu cầu về kiến thức đa ngành, đa lĩnh vực ở mức độ cần thiết cũng là yếu tố không thể thiếu khi áp dụng kỹ năng tương tác với học viên. Người giảng viên không chỉ cần có tri thức về tâm lý học viên, mà rất cần có hiểu biết về tâm lý lãnh đạo, có khả năng dự báo, đoán định những tác động nhiều phía, nhiều mặt vào quá trình học tập, đào tạo.
_________________
Ngày nhận: 09-11-2022; Ngày bình duyệt: 15-11-2022; Ngày duyệt đăng:9-1-2023.
PGS, TS PHAN HỮU TÍCH
Viện Xây dựng Đảng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh