TS NGUYỄN THỊ THẾ
Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(LLCT) - Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là một văn kiện có ý nghĩa đặc biệt đối với cách mạng Việt Nam. Từ các nguyên tắc trong bản Đề cương: “dân tộc, khoa học, đại chúng”, đường lối, quan điểm của Đảng về văn hóa đã không ngừng được bổ sung, phát triển qua các giai đoạn cách mạng. Sau 80 năm, những nguyên tắc đó vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, là cơ sở để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Trình diễn áo dài tại Hoàng Thành Thăng Long - Ảnh: vanhoanghethuat.vn
1. Nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943
Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943, do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng ta về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Cùng với lập trường, lý luận khoa học mácxít về văn hóa, bản Đề cương là sự cụ thể hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, chủ trương, đường lối và sự tổng kết thực tiễn lãnh đạo trong lĩnh vực văn hóa của Đảng ta qua các cao trào đấu tranh cách mạng kể từ khi thành lập.
Mang sứ mệnh khơi thông những mạch nguồn của văn hóa dân tộc trong bối cảnh đẩy mạnh cao trào cách mạng, tiến tới Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, bản Đề cương đã tạo nên sự thống nhất về nhận thức và tư tưởng cho nhân dân, nhất là tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ có tâm huyết, cổ vũ lòng tự hào dân tộc, khích lệ tinh thần dấn thân cho cách mạng, thật sự trở thành ngọn đuốc soi đường cho sự phát triển nền văn hóa mới.
Đã 8 thập kỷ đi qua, đến nay, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 vẫn còn nguyên giá trị, trở thành nền tảng cho đường lối, chính sách của Đảng về văn hóa suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt là ba nguyên tắc của văn hóa Việt Nam mà bản đề cương đã xác định: dân tộc, khoa học và đại chúng.
Trong phần “Cách đặt vấn đề”, bản Đề cương đã nêu rõ thái độ của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề văn hóa: “Mặt trận văn hóa là một trong 3 mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó, người cộng sản phải hoạt động và “cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”. Đặc biệt, bản Đề cương đã đưa ra 3 nguyên tắc vận động của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn này: dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng); khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ).
Nhìn lại chặng đường 80 năm qua, chúng ta càng thấy rõ con đường phát triển của văn hóa Việt Nam là đúng đắn và ưu việt. Văn hóa luôn được Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định là một mặt trận: “Văn hóa, văn nghệ là một mặt trận, anh chị em văn nghệ sỹ là chiến sỹ trên mặt trận ấy”(1). Văn hóa được thấm nhuần, kết tinh trong những chủ trương, đường lối của Đảng, được kiểm chứng bằng những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.
Đề cương về văn hóa Việt Nam đã tỏa sáng những giá trị cốt lõi của một văn kiện mang tầm Cương lĩnh, từ cách đặt vấn đề về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế và chính trị; là nền tảng định hướng tư duy, nhận thức của chúng ta ngày càng sâu sắc rằng: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, nguồn lực nội sinh và động lực to lớn để phát triển nhanh và bền vững đất nước; cần khơi dậy nguồn sức mạnh mềm lớn lao, các tài nguyên, giá trị văn hóa, các giá trị quốc gia, giá trị gia đình Việt Nam thành những giá trị phát triển; làm cho văn hóa không chỉ được đặt ngang hàng mà còn thẩm thấu sâu hơn, lan tỏa mạnh hơn trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội.
Càng nhận thức rõ ý nghĩa quan trọng, tính chất đúng đắn của những luận điểm, nguyên tắc, đường lối của bản Đề cương, chúng ta càng thấy được sự cần thiết phải kế thừa và phát huy những giá trị tích cực, tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc, vừa đẩy mạnh giao lưu, tiếp biến, vừa tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, khẳng định bản sắc và bản lĩnh của dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế.
2. Đảng ta thực hiện nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng của Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943 trong xây dựng và phát triển văn hóa
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cùng với việc khẳng định phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, Đảng ta đã xác định văn hóa - xã hội là nền tảng tinh thần vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta chủ trương “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nền văn hóa đó được xây dựng trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, “Nền văn hóa của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”, với tinh thần chủ đạo là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam kết hợp với vai trò quan trọng của văn hóa đối với sự tồn tại và phát triển xã hội. Văn hóa tạo nguồn, khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn của quần chúng nhân dân đóng góp vào sự phát triển bền vững của xã hội.
Đặc biệt, từ Hội nghị Trung ương 10 khóa IX đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định, văn hóa đã gắn kết chặt chẽ hơn với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị và tạo nên những thành tựu về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”(2). Đây là những định hướng quan trọng cho thấy vai trò và tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Cùng với chủ trương, định hướng đó, những thành tựu của đất nước đã đạt được trong sự nghiệp đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung cũng như quá trình xây dựng, phát triển nền văn hóa nói riêng là những tiền đề thuận lợi để văn hóa tiếp tục phát triển trong những năm tới.
Mục tiêu chung hướng đến của quá trình xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam đã được Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI xác định rõ: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện hướng tới chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”(3). Đây là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có bước đi phù hợp, thích ứng với điều kiện, trình độ phát triển về kinh tế - xã hội, bối cảnh trong nước và quốc tế. Trong quá trình đó, việc từng bước xây dựng nền văn hóa tiên tiến, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trên cơ sở những nguyên tắc đã xác định có ý nghĩa quan trọng. Nhờ những định hướng đúng đắn đó, việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản để thúc đẩy lĩnh vực văn hóa phát triển. Đầu tư cho sự nghiệp văn hóa không chỉ từ nguồn ngân sách nhà nước mà còn thu hút ngày càng lớn từ nguồn vốn xã hội hóa. Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ngày càng đi vào chiều sâu, tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng, đạo đức, lối sống cho các tầng lớp nhân dân; hệ thống thông tin, báo chí, xuất bản phát triển từ Trung ương đến địa phương với tất cả các loại hình, đáp ứng nhu cầu về thông tin trong nước và quốc tế cho người dân, góp phần thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền.
Trong điều kiện công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, Việt Nam rất coi trọng bảo vệ, gìn giữ văn hóa truyền thống, đấu tranh chống lại các sản phẩm phi văn hóa, các thông tin sai trái, thù địch. Các lĩnh vực về quyền tác giả, công nghiệp văn hóa được Đảng ta sớm quan tâm chỉ đạo thực hiện; hội nhập quốc tế về văn hóa, thực hiện các điều ước quốc tế song phương và đa phương, thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế về văn hóa tiếp tục phát triển sâu rộng.
Những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đã giúp cho đời sống vật chất được cải thiện không ngừng - một điều kiện cơ bản, hàng đầu bảo đảm cho sự phát triển của con người Việt Nam. Thu nhập bình quân đầu người trong cả nước năm 2022 đã tăng hơn 2 lần so với thời điểm năm 2010. Đầu tư của Nhà nước cho khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, nhất là hạ tầng, giáo dục được quan tâm. Tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước từ 14,2% giảm còn dưới 4,8% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều)(4).
Chương trình xây dựng nông thôn mới đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần cải thiện toàn diện cuộc sống của cư dân nông thôn. Dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao về chất lượng, thuận lợi về điều kiện tiếp cận. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh, từ 60,9% năm 2010 lên 91,1% năm 2022(5). Chỉ số phát triển con người của Việt Nam được cải thiện từng năm, thuộc nhóm nước có chỉ số phát triển con người trung bình cao của thế giới. Công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với những nguy cơ từ an ninh phi truyền thống, như nước biển dâng, thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường... được chú trọng, từ việc hoàn thiện thể chế, chính sách đến dự báo, phát hiện và xử lý kịp thời.
Đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, phong phú và toàn diện hơn. Mạng lưới giáo dục quốc dân được tăng cường, trang thiết bị đầu tư cho giáo dục được tăng cường, đội ngũ nhà giáo được quan tâm phát triển, Nhà nước có nhiều chính sách bảo đảm cho mọi người dân đều có quyền được hưởng thụ nền giáo dục suốt đời. Sự phát triển của hệ thống giáo dục và đào tạo không chỉ góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội, mà còn là một yếu tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách, lối sống cho thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước.
Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần tích cực vào việc thực hiện quyền làm chủ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân trong các quyết định về kinh tế, xã hội ở địa phương. Việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã góp phần phát triển văn hóa đảng, văn hóa chính trị, đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu đi đầu của cán bộ, đảng viên.
Các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2021 - 2025”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, xây dựng gia đình văn hóa mới, văn hóa công sở, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân... đã góp phần tạo nên chuyển biến to lớn trong xây dựng con người Việt Nam, ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực, xuống cấp về đạo đức xã hội, tạo lập môi trường xã hội lành mạnh, tích cực.
Quan điểm của Đảng về tự do tôn giáo, tín ngưỡng và tự do không tôn giáo, tín ngưỡng, về dân tộc, về an sinh, phúc lợi xã hội… được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và hệ thống pháp luật. Nhiều chủ trương, chính sách trong lĩnh vực văn hóa - xã hội được thực hiện, mang lại hiệu quả thiết thực. Các tín ngưỡng truyền thống được tôn trọng và phát huy ý nghĩa xã hội tốt đẹp. Các tôn giáo được tạo điều kiện hoạt động thuận lợi theo đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số được tạo điều kiện để phát triển kinh tế, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa bản sắc. An ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Đời sống vật chất, tinh thần và an sinh xã hội của đồng bào các tôn giáo, các dân tộc thiểu số được cải thiện.
Các hoạt động văn hóa, như văn học, nghệ thuật, thư viện, bảo tồn, phát huy di sản văn hóa, đều được quan tâm phát triển, có những công trình, tác phẩm có giá trị, có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc.
Hệ thống báo chí, truyền thông đại chúng phát triển nhanh, ngày càng hiện đại. Theo số liệu thống kê năm 2022 của Bộ Thông tin và Truyền thông, tại Việt Nam hiện có hơn 72 triệu người sử dụng internet, chiếm hơm 73% dân số, 143,3 triệu thuê bao điện thoại, bằng 148% dân số, trong đó phần lớn người dân sử dụng điện thoại thông minh. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho người dân mở mang tri thức, giao lưu, kết nối văn hóa với các dân tộc, các nền văn hóa trên thế giới. Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng, thể thao thành tích cao đều có sự mở rộng, đạt nhiều kết quả tích cực.
Có thể nói, những kết quả xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam trong những năm qua là rất to lớn, toàn diện. Những kết quả ấy, trước hết là nhờ đường lối đổi mới của Đảng về phát triển văn hóa, đồng thời, bắt nguồn từ những nguồn cội văn hóa tốt đẹp của dân tộc và sự lao động sáng tạo với khát vọng phát triển của mỗi người dân, đặc biệt là sự vận dụng sáng tạo nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng trong phát triển văn hóa, hướng tới một nền văn hóa phục vụ cho sự phát triển phồn vinh của dân tộc, phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân trên cơ sở khoa học tiếp thu những giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tuy vậy, thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: chưa phát huy hết vai trò, tiềm năng của văn hóa đóng góp vào sự phát triển đất nước, ở một số nơi chưa thực sự đặt văn hóa ngang bằng với kinh tế, xã hội; công tác tổ chức thực hiện chủ trương, quan điểm phát triển văn hóa ở một số lĩnh vực, địa phương còn hạn chế, cơ chế, chính sách còn bất cập, đầu tư chưa tương xứng với yêu cầu phát triển, một số thiết chế văn hóa chưa sử dụng có hiệu quả; việc thu hẹp khoảng cách hưởng thụ về văn hóa giữa các vùng miền, đặc biệt những địa bàn khó khăn còn chậm. Số lượng tác phẩm văn hóa có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật chưa tương xứng với yêu cầu phát triển văn hóa, đồng thời vẫn còn không ít tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp…
Nhận thức và việc cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về văn hóa ở một số địa phương, lĩnh vực chưa theo kịp yêu cầu phát triển; điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam còn không ít khó khăn, do đó đầu tư cho phát triển văn hóa còn hạn chế. So với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả đến xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng.
Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa vẫn có tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng.
Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác.
Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ. Những kết quả trong hoạt động văn học, nghệ thuật, trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, chưa theo kịp yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển nhanh nhưng chưa hợp lý; còn có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích trong một số cơ quan, đơn vị; công tác quản lý các phương tiện truyền thông mới chưa chặt chẽ, nhiều thông tin tiêu cực, sai trái trên mạng internet và các kênh truyền thông xã hội gây nhiễu loạn nhận thức, bức xúc cho người dân. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc còn nhiều hạn chế. Nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực văn hóa còn nhiều hạn chế, bất cập. Hợp tác quốc tế về văn hóa hiệu quả chưa cao, chưa theo kịp yêu cầu phát triển.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do một số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này, dẫn đến lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
3. Giải pháp tăng cường phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc trên tinh thần dân tộc, khoa học, đại chúng
Để giải quyết những vấn đề đặt ra ở trên, khắc phục những mặt hạn chế, phát huy những nhân tố tích cực, tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi cho văn hóa phát triển, trở thành động lực và sức mạnh nội sinh quan trọng trong quá trình phát triển đất nước, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy trên lĩnh vực văn hóa, trước hết, cần phải thực hiện tốt các giải pháp đã nêu trong Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, trong đó, tập trung tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa, con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, “lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”(6).
Đưa nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa vào quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng cấp ủy, địa phương, ngành, tổ chức, đoàn thể. Đề cao vai trò, tính gương mẫu cũng như làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu, các cá nhân, tập thể trong thực hiện nhiệm vụ, đẩy lùi tình trạng suy thóai về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức.
Thường xuyên bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Xây dựng cơ chế lãnh đạo, quản lý khoa học, bảo đảm định hướng chính trị.
Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, vai trò của Liên hiệp các hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và địa phương trong việc tập hợp, tổ chức và động viên sự sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ, của nhân dân. Khuyến khích các tài năng trẻ, có hình thức tôn vinh xứng đáng các văn nghệ sĩ có công lao đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước
Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế; sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thấy rõ những tác động của kinh tế thị trường đến hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa, từ đó hoạch định những chính sách hợp lý. Thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa, từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền văn hóa và các quyền liên quan vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam, vừa tiếp cận các chuẩn mực quốc tế phù hợp với đặc trưng văn hóa, con người Việt Nam. Xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển văn hóa dựa trên nhu cầu của nhân dân, điều kiện thực tiễn và chiến lược phát triển tổng thể của đất nước, cũng như từng địa phương. Thực thi chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa; có chính sách văn hóa đặc thù đối với các dân tộc thiểu số...
Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa, thực thi chính sách trọng dụng nhân tài, đãi ngộ cán bộ phù hợp. Điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù.
Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa. Xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật trọng điểm đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Gửi sinh viên, cán bộ chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật, thể thao đi đào tạo ở các nước phát triển. Chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ là người dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương.
Tăng đầu tư cho lĩnh vực văn hóa tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy. Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về sử dụng đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học, nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản...
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, gắn trách nhiệm cá nhân với tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản lý hoạt động văn hóa. Tăng cường cơ chế phối hợp trong quản lý văn hóa với các bộ, ban, ngành, đoàn thể, đặc biệt là với các cơ quan giáo dục, thông tin, truyền thông, pháp luật, an ninh... Chủ động xử lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng.
Chủ động đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng, đạo đức, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa. Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng một số cơ quan báo chí, xuất bản hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, một số sản phẩm văn hóa, văn nghệ lệch lạc, chạy theo thị hiếu tầm thường.
Thứ ba, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển văn hóa với phát triển con người
Văn hóa được coi là một “trụ cột” để phát triển bền vững đất nước, nhưng “trụ cột” văn hóa có mạnh, có kết hợp với các “trụ cột” chính trị, kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh để mang lại sự “vững bền” hay không là phụ thuộc vào nhân tố con người. Con người phát triển toàn diện thì không chỉ “trụ cột” văn hóa mà các “trụ cột” khác như kinh tế, chính trị, xã hội và quốc phòng, an ninh cũng được bảo đảm vì con người chính là yếu tố “nhân hòa” để thực hiện phát triển “hài hòa” các yếu tố cho phát triển bền vững. Con người càng phát triển các giá trị văn hóa dân tộc tốt đẹp cũng được giữ vững và nâng cao. Như vậy, muốn phát triển văn hóa phải chăm lo, phát huy nhân tố con người, phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với phát triển con người.
_________________
Ngày nhận: 31-3-2023; Ngày bình duyệt: 4-4-2023; Ngày duyệt đăng: 31-10-2023.
(1) Báo Cứu quốc, số 1986, ngày 5-1-1952, đăng toàn văn Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa của Chủ tịch Hồ Chí Minh;
(2), (6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.115-116, 216.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 46.
(4) https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2022/06/Khao-sat-muc-song-2020.pdf
(5) https://baohiemxahoi.gov.vn/