(LLCT) - Sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh rất chú trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình phát triển, Đảng ta luôn thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, nên đã đạt được những kết quả quan trọng, song việc thực hiện nguyên tắc này ở một số tổ chức đảng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc và thực hiện nghiêm nguyên tắc đặc biệt quan trọng này.
TS NGUYỄN ĐỨC NHUẬN
Viện Xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Mở đầu
Ngay từ khi thành lập Đảng và trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trung thành và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về đảng cộng sản, trong đó đặc biệt chú trọng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Hồ Chí Minh đề cập đến nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc Đảng đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương; là nguyên tắc tổ chức cơ bản, chi phối sâu sắc các mặt công tác và hoạt động, trong đó có công tác cán bộ của Đảng. Thực hiện nghiêm nguyên tắc này là cơ sở để ra quyết định, chủ trương đúng và thực hiện tốt công tác cán bộ.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về nguyên tắc tập trung dân chủ
Trong các bài viết, bài nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng phổ biến khái niệm “dân chủ tập trung”, đó là phong cách ngôn ngữ dịch trong thời kỳ đó và từ cuối năm 1959, Người dùng khái niệm “nguyên tắc tập trung dân chủ”. Qua các trình bày, giải thích của Hồ Chí Minh thấy rõ, quan điểm của Người về bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ là sự quán triệt sâu sắc quan điểm về nguyên tắc tập trung dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”(1). Người giải thích cụ thể: “có việc gì thì ai cũng được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo hơn thì được. Ấy là dân chủ. Đã bỏ thăm rồi, thì giao cho hội ủy viên làm, khi ấy thì tất cả hội viên phải theo mệnh lịnh hội ấy. Ấy là tập trung”(2). Người chỉ rõ sự thống nhất giữa dân chủ và tập trung trong nguyên tắc tập trung dân chủ: “Tập trung trên nền tảng dân chủ... Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”(3); “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau... Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”(4).
Về vai trò, tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ, Người khẳng định: “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(5). Đối với Đảng, nếu các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức đúng, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ thì Đảng ngày càng vững mạnh, thống nhất cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, để “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”(6).
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức được khẳng định ngay từ Điều lệ đầu tiên của Đảng và được khẳng định nhất quán. Nhờ được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng đã phát huy được trí tuệ của toàn Đảng để đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, nội bộ Đảng đoàn kết, tổ chức chặt chẽ, hoạt động thông suốt, lãnh đạo dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng ta tổng kết: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(7).
Điều lệ Đảng do Đại hội XI của Đảng thông qua tiếp tục khẳng định: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Điều 9 Điều lệ Đảng (Đại hội XI) đã xác định những nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ gồm: “1- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; 2- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc; cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên; giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ; 3- Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình; 4 - Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng; thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương; 5 - Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành; trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình; đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng; cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số; 6 - Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”.
Các nội dung đó chi phối, điều chỉnh hoạt động lãnh đạo của Đảng và tất cả các hoạt động trong nội bộ Đảng. Tổ chức đảng nào thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ thì đoàn kết thống nhất, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao; trái lại, tổ chức đảng nào không thực hiện nghiêm nguyên tắc thì nội bộ sẽ mất đoàn kết, suy giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có thể dẫn đến các vi phạm, làm tổn hại đến sức mạnh và uy tín của Đảng. Thực tế thời gian qua cho thấy, hầu hết các tổ chức đảng, cán bộ bị xử lý kỷ luật đều do vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.
3. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ thời gian qua
Với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với công tác cán bộ của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị”(8). Do trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đều có tổ chức đảng, các tổ chức đảng ấy đều thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nên thông qua các tổ chức đảng này, nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ được áp dụng ở tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, trước yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên CNXH; trên cơ sở các nguyên tắc được xác định trong Điều lệ Đảng và xuất phát từ thực trạng công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung chỉ đạo nghiên cứu, ban hành nhiều nghị quyết, quyết định, quy chế, quy định để cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chú trọng chỉ đạo việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy chế làm việc của các cơ quan lãnh đạo đảng (cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng), trong đó xác định rõ thẩm quyền của tập thể lãnh đạo, trách nhiệm của cá nhân cán bộ lãnh đạo, mối quan hệ công tác giữa cơ quan lãnh đạo với cấp ủy, cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy cấp trên; với cơ quan lãnh đạo đảng cấp dưới trực tiếp; với các tổ chức đảng có liên quan; v.v..
Các quy chế làm việc này là văn bản thể hiện cụ thể nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của cơ quan lãnh đạo đảng, trong đó có công tác cán bộ; là căn cứ để kiểm tra, giám sát và kết luận, xử lý vi phạm (nếu có), khắc phục tình trạng chung chung, mơ hồ về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị “Về kiểm soát quyền lực và phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ” giúp cho việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ được nghiêm túc, chặt chẽ hơn.
Đồng thời, để đề cao vai trò của cá nhân người đứng đầu trong công tác cán bộ, ngày 23-4-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 142-QĐ/TW thí điểm giao quyền, trách nhiệm cho người đứng đầu trong công tác cán bộ, gồm: giới thiệu nhân sự bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của người đứng đầu; bầu bổ sung ủy viên ban thường vụ cấp ủy cùng cấp; bổ nhiệm, miễn nhiệm cấp trưởng cấp dưới trực tiếp thuộc thẩm quyền quản lý. Tuy nhiên, người đứng đầu chỉ giới thiệu nhân sự, còn thẩm quyền quyết định vẫn thuộc về tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị theo nguyên tắc tập trung dân chủ; đây là chủ trương thí điểm, người đứng đầu có thể thực hiện hoặc không thực hiện thẩm quyền này và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng được quy định trong Điều lệ Đảng đã cơ bản bảo đảm tính bao quát, toàn diện, đầy đủ và phù hợp...; các nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng quy định trong Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Trung ương đã được các cấp ủy, tổ chức đảng tuân thủ và thực hiện nghiêm túc”
Để bảo đảm ngăn chặn kịp thời các tác động tiêu cực, gây cản trở việc xem xét, xử lý vi phạm đối với cán bộ, ngày 23-5-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, việc tạm đình chỉ công tác chỉ là việc buộc cán bộ dừng thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao trong thời hạn nhất định, không phải là hình thức kỷ luật; việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật vẫn thuộc thẩm quyền của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra của cấp ủy theo quy định của Điều lệ Đảng.
Hầu hết các cấp ủy, tổ chức đảng đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Do đó, các chủ trương về công tác cán bộ và việc thực hiện các khâu trong công tác cán bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng bàn bạc, thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng được quy định trong Điều lệ Đảng đã cơ bản bảo đảm tính bao quát, toàn diện, đầy đủ và phù hợp...; các nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng quy định trong Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Trung ương đã được các cấp ủy, tổ chức đảng tuân thủ và thực hiện nghiêm túc”(9).
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo nói chung, trong công tác cán bộ nói riêng. Hội nghị Trung ương 4 khóa XI nêu: “Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân”(10).
Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số tổ chức đảng còn chưa nghiêm, thậm chí vi phạm”(11); “Nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện chưa nghiêm, thậm chí có nơi còn vi phạm nghiêm trọng… Một bộ phận cấp ủy viên chưa nắm vững và chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; thực hiện chưa đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của đảng viên và của cấp ủy viên”(12).
Những biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ thường thấy là: một số người đứng đầu lợi dụng việc nguyên tắc này có nội dung chưa được quy định cụ thể, nhất là về mối quan hệ, trách nhiệm giữa tập thể, cá nhân người đứng đầu, chưa có chế tài trách nhiệm của cá nhân khi xảy ra sai phạm để áp đặt, thực hiện ý muốn của cá nhân mình, dẫn đến việc bổ nhiệm, bố trí cán bộ không trong sáng, “thần tốc”, cục bộ địa phương, vì “nhóm lợi ích”…; quá trình thực hiện đúng quy trình, thủ tục, nhưng bổ nhiệm không đúng người, để lọt người không xứng đáng hoặc để sót người xứng đáng, một số cán bộ sau khi đã chuyển công tác, nghỉ công tác bị phát hiện có sai phạm, thậm chí bị xử lý hình sự.
4. Giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ
Một là, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy viên, thành viên đảng đoàn, ban cán sự đảng, cán bộ, đảng viên về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chỉ đạo toàn bộ công tác tổ chức và hoạt động của Đảng, đồng thời có quan hệ mật thiết với các nguyên tắc tổ chức và hoạt động khác của Đảng. Công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng nên việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng, phải được nhận thức đúng để có hành động đúng, phải thống nhất về nhận thức để có sự thống nhất trong hành động.
Tiếp tục quán triệt sâu rộng đến các cấp ủy, tổ chức đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên những quy định của Điều lệ Đảng; các nghị quyết của Đại hội Đảng; các nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương; các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư liên quan đến nguyên tắc tập trung dân chủ và công tác cán bộ. Trên cơ sở nhận thức đầy đủ, sâu sắc, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp xác định rõ trách nhiệm của mình trong thực hiện nghiêm nguyên tắc; định kỳ kiểm điểm việc thực hiện nguyên tắc, thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện lệch lạc, vi phạm nguyên tắc để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục. Chú trọng việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc của cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng, nhất là những quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, tập thể ban thường vụ cấp ủy, tập thể đảng đoàn, ban cán sự đảng và bí thư, phó bí thư cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng; của cấp ủy viên, thành viên đảng đoàn, ban cán sự đảng đồng thời là người đứng đầu cơ quan nhà nước; về các chế độ thông tin, báo cáo, giải trình.
Cán bộ, đảng viên cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, yêu cầu cấp bách và nội dung của việc thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, từ đó vừa tự giác thực hiện đúng, vừa góp phần cùng tổ chức đảng thực hiện nghiêm nguyên tắc.
Hai là, cụ thể hóa, quy chế hóa nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ trong các khâu của công tác cán bộ
Cũng như mọi nguyên tắc, nguyên tắc tập trung dân chủ mang tính khái quát, trừu tượng. Khi đã khẳng định vai trò của nguyên tắc và trách nhiệm phải thực hiện nghiêm nguyên tắc và có quan điểm, chủ trương đúng đắn, cần có cách thức, quy trình, biện pháp nhằm thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong từng khâu của công tác cán bộ, tránh sai phạm.
Mặc dù Điều lệ Đảng đã xác định các nội dung của nguyên tắc, Ban Chấp hành Trung ương đã có các hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng và Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong các quy định, nhưng vẫn không thể quy định cụ thể, chi tiết cho từng tổ chức đảng ở từng cấp, từng lĩnh vực. Vì vậy, trên cơ sở các quy định của Trung ương, các cấp ủy, tổ chức đảng cần vận dụng, cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với thẩm quyền của cấp mình và đặc điểm đội ngũ cán bộ ở địa phương, cơ quan, đơn vị để bảo đảm công tác cán bộ được thực hiện đúng nguyên tắc nhưng không máy móc.
Để công tác cán bộ được thực hiện thống nhất, nền nếp, tránh tùy tiện, cần tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh các quy chế, quy định đối với từng khâu trong công tác cán bộ. Trong các quy chế, cùng với việc hoàn thiện quy trình, thủ tục thực hiện, cần quy định rõ trách nhiệm của từng chủ thể: tập thể ban chấp hành, tập thể ban thường vụ, bí thư, ủy ban kiểm tra, ban tổ chức của cấp ủy; cấp ủy viên phụ trách tổ chức đảng cấp dưới. Đối với những việc dễ xảy ra sai phạm, cần quy định chế tài xử lý vi phạm để phòng ngừa từ sớm, từ xa. Rút kinh nghiệm từ thực tế một số nơi thực hiện đúng quy trình nhưng vẫn không lựa chọn, bổ nhiệm đúng cán bộ để hoàn thiện các quy chế về công tác cán bộ.
Ba là, mở rộng dân chủ, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và các cán bộ có trách nhiệm trong công tác cán bộ
Thực chất của nguyên tắc tập trung dân chủ là hướng tới sự tập trung, thống nhất trên cơ sở dân chủ, sau khi đã thảo luận một cách thật sự dân chủ, không phải là tập trung quan liêu, tập trung độc đoán. Theo đó, trong công tác cán bộ, cần mở rộng và phát huy mạnh mẽ dân chủ trong tổ chức đảng. Thực hiện công khai các quy định của Đảng và Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ, công khai tiêu chuẩn từng loại cán bộ, công khai quy hoạch cán bộ, công khai kê khai tài sản và thu nhập của cán bộ theo quy định…
Trong quá trình xây dựng các văn bản, chủ trương về công tác cán bộ, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy thực hiện dân chủ thật sự, tạo điều kiện để các cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ cấp ủy phát biểu thẳng thắn ý kiến của mình, trao đổi kỹ lưỡng, có thể yêu cầu bí thư cấp ủy, ban tổ chức và ủy ban kiểm tra của cấp ủy cung cấp thêm thông tin, giải trình các dư luận về cán bộ (nếu có); chỉ khi đã thảo luận, làm rõ mọi khía cạnh mới tiến hành biểu quyết; nếu thấy chưa có đủ căn cứ xác đáng, ý kiến của các thành viên còn nhiều khác nhau, thì có thể để lại xem xét sau, chưa biểu quyết quyết định.
Từng cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ cấp ủy phải phát huy đầy đủ trách nhiệm trong tập thể lãnh đạo khi thảo luận, quyết định các vấn đề về công tác cán bộ và quyết định đối với cán bộ. Muốn vậy, mỗi thành viên trong tập thể cấp ủy phải nắm vững các chủ trương, quy định của Đảng về công tác cán bộ; có kiến thức nhất định về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực mà cán bộ xem xét bổ nhiệm đang công tác; phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác, trung thực đến cấp có thẩm quyền những nội dung có liên quan đến nhân sự thuộc thẩm quyền được phân công theo dõi, quản lý; có thái độ thật sự công tâm, khách quan, trong sáng, không cục bộ, “lợi ích nhóm”; có dũng khí bảo vệ cán bộ tốt và mạnh dạn chỉ ra những hạn chế, biểu hiện chưa xứng đáng của cán bộ được xem xét đưa vào quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử; am hiểu đối tượng cán bộ thuộc thẩm quyền cấp ủy quản lý; lắng nghe dư luận của cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị và nhân dân về cán bộ và công tác cán bộ; v.v..
Để phát huy dân chủ và đồng thời với mở rộng dân chủ, cần xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy và cán bộ có trách nhiệm trong công tác cán bộ, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Bí thư cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng là người chủ trì việc thực hiện dân chủ trong tập thể lãnh đạo, nên cần có ý thức đầy đủ về phát huy trí tuệ tập thể trong công tác cán bộ, chỉ đạo chuẩn bị đầy đủ các thông tin cần thiết phục vụ việc thảo luận trong tập thể lãnh đạo; triệu tập đủ và đúng thành phần khi họp bàn về công tác cán bộ; bố trí đủ thời gian; bảo đảm dân chủ trong thảo luận, ghi phiếu biểu quyết, phiếu giới thiệu, phiếu tín nhiệm đúng quy định; động viên các thành viên phát biểu đầy đủ, thẳng thắn ý kiến của mình; không áp đặt ý kiến cá nhân cho tập thể; kết luận trung thành với ý kiến của đa số và thực hiện đúng quy định về bảo lưu ý kiến của thành viên có ý kiến khác; báo cáo đầy đủ các ý kiến khác nhau trong thảo luận với cấp ủy cấp trên.
Thực hiện nghiêm túc Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. Bí thư cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng chịu trách nhiệm của người đứng đầu; các thành viên cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo chịu trách nhiệm khi để xảy ra tiêu cực, sai phạm trong công tác cán bộ ở địa phương, cơ quan, đơn vị, lĩnh vực thuộc thẩm quyền được giao phụ trách; người đứng đầu các cơ quan tham mưu, cán bộ tham mưu thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong công tác cán bộ theo quy định, nhất là khi để xảy ra tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.
Bốn là, tập trung tháo gỡ các vướng mắc, chỉ đạo thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong các công việc, các khâu có nhiều vấn đề phức tạp
Công tác cán bộ có nhiều nội dung, nhiều khâu có mối liên hệ, gắn bó mật thiết với nhau, làm cơ sở cho nhau, thực hiện không tốt một nội dung, một khâu sẽ dẫn đến kết quả công tác cán bộ không đạt yêu cầu. Thực tế cho thấy, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong một số công việc, một số khâu còn có những vấn đề vướng mắc và thường xảy ra vi phạm, như: đánh giá cán bộ, bổ nhiệm cán bộ, quản lý cán bộ. Do vậy, cần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để xác định rõ định hướng giải quyết các vấn đề đặt ra, các khó khăn, vướng mắc và tập trung hoàn thiện, bổ sung các quy chế, quy định để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong những khâu dễ xảy ra sai phạm.
Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có chủ trương, thực hiện nhiều thí điểm trong công tác cán bộ. Vấn đề hiện nay là chỉ đạo tổ chức thực hiện khẩn trương, có chất lượng các thí điểm này và sớm tổng kết, kết luận để hình thành chủ trương chính thức, áp dụng rộng rãi gắn với những vấn đề mới trong tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; xây dựng chính quyền đô thị; thực hiện chuyển đổi số quốc gia; v.v..
Năm là, tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất đề cao việc kiểm tra, kiểm soát cán bộ: “phải luôn luôn kiểm soát cán bộ”(13); “Có kiểm tra mới… biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”(14). Đối với công tác kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ, Người phê bình: “Công tác kiểm tra còn bị động và nặng về giải quyết những vụ vi phạm kỷ luật trước mắt, chưa chủ động về việc giải quyết toàn diện vấn đề giữ gìn kỷ luật và chấp hành Điều lệ của Đảng, để nâng cao ý thức của đảng viên và cán bộ một cách căn bản và lâu dài”(15).
Thực tế các vụ việc vi phạm của các cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng về công tác cán bộ bị xử lý kỷ luật vừa qua đều do vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều này cho thấy, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ nói chung, trong công tác cán bộ nói riêng cần được xem là nội dung trọng yếu trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Theo đó, các cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ; việc kiểm tra, giám sát phải bảo đảm đúng nguyên tắc, phương pháp, phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, kỷ luật trong Đảng, đồng thời xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.
5. Kết luận
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nội dung cốt lõi trong công tác cán bộ. Thực hiện tốt nguyên tắc này là điều kiện cơ bản bảo đảm công tác cán bộ đạt chất lượng tốt, xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, tránh được các tiêu cực trong công tác cán bộ. Thời gian qua, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ có nhiều ưu điểm, nhưng cũng bộc lộ không ít hạn chế, khuyểt điểm. Để thực hiện tốt nguyên tắc này cần nâng cao nhận thức của các cơ quan lãnh đạo và cán bộ, đảng viên; tiếp tục hoàn thiện quy chế, quy định và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc.
_________________
Ngày nhận bài: 22-7-2024; Ngày bình duyệt: 26 -7-2024; Ngày duyệt đăng: 27-9-2024.
(1), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.275, 286.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Sđd, tr. 335.
(4), (13), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.620, 314, 636.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.325.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.17.
(7) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.37, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2004, tr.830.
(8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.88-89.
(9), (12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.267-268, 273-274.
(10) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.22-23.
(11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Sđd, tr.90.
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr.363.