Diễn đàn

Thực hiện tự chủ tài chính trong các cơ sở giáo dục đại học - Nghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

15/12/2025 17:12

DOI: https://doi.org/10.70786/PTOJ.3872

(LLCT) - Thực hiện chủ trương đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có tự chủ tài chính, các trường đại học đã đạt được những kết quả tích cực nhưng cũng còn hạn chế, vướng mắc nhất định. Trên cơ sở đánh giá việc thực hiện tự chủ tài chính tại Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả tự chủ tài chính là hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao năng lực quản trị tài chính, đa dạng hóa nguồn thu qua học phí, dịch vụ, tài trợ nghiên cứu và hợp tác quốc tế.

TS NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Đại học Quốc gia TP.HCM sau 3 thập kỷ: Diện mạo đẹp hơn với các cụm trường, ký túc xá - Ảnh 9.
Qua 30 năm xây dựng và phát triển, Đại học Quốc gia TP.HCM đang dần hình thành diện mạo của đô thị đại học hiện đại_Ảnh: Báo Tuổi trẻ

1. Mở đầu

Luôn coi giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu”, là “sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”, do vậy, một trong những chủ trương đổi mới, đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo là thực hiện cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục đào tạo. Ngày 04-11-2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; ngày 25-10-2017, ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; ngày 22-8-2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, trong đó đều nhấn mạnh “bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học”, trong đó có tự chủ tài chính.

Tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập (trong đó có đại học công lập) là quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện quy định về danh mục sự nghiệp công, giá, phí và lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công, phân loại mức độ tự chủ tài chính (khoản 1, Điều 3, Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21-6-2021 của Chính phủ). Đến nay, cơ chế tự chủ tài chính đã giúp các trường đại học ngày càng chủ động hơn trong quản trị, vận hành bộ máy và nhân sự, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ giáo dục và đào tạo phù hợp với xu thế mới(1). Tuy vậy, thực hiện tự chủ tài chính ở nhiều cơ sở đào tạo vẫn còn hình thức, chưa minh bạch. Việc chuyển đổi từ phí sang giá và lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công chưa kịp thời. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đúng về tự chủ. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và thể chế kịp thời. Từ thực tế trên, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra rằng “quan niệm về tự chủ và xã hội hóa giáo dục chưa phù hợp”.

Do vậy, việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, qua đó có thêm luận cứ xác đáng đề xuất, kiến nghị với Đảng và các cơ quan quản lý nhà nước nhằm từng bước tháo gỡ điểm nghẽn trong quá trình thực hiện tự chủ tài chính ở các trường đại học công lập là cần thiết và cấp bách.

2. Nội dung

2.1. Kết quả thực hiện tự chủ tài chính ở Đại học Quốc gia Hà Nội

Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) được thành lập theo Nghị định số 97/CP ngày 10-12-1993 của Chính phủ. Qua hơn 30 năm phát triển, cơ cấu tổ chức của ĐHQGHN từng bước được hoàn thiện. Đến năm 2024, hệ thống tổ chức của ĐHQGHN có 37 đơn vị sự nghiệp công lập, gồm: 01 cơ quan ĐHQGHN (09 ban chức năng, khối Văn phòng Đảng - đoàn thể, 01 Văn phòng ĐHQGHN) và 36 đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc, với 13 đơn vị đào tạo trình độ đại học (09 trường đại học, 02 trường, 02 khoa trực thuộc); 06 viện nghiên cứu khoa học (05 viện nghiên cứu khoa học thành viên, 01 viện nghiên cứu khoa học trực thuộc); 15 đơn vị dịch vụ và phục vụ khác.

Thực hiện Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21-6-2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ cho đơn vị sự nghiệp công lập thay thế Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14-02-2015, ĐHQGHN đã đổi mới cơ chế hoạt động, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền: (1) tăng cường tự chủ về tài chính để giảm phụ thuộc vào ngân sách nhà nước; (2) bảo đảm nguồn thu đa dạng, gây quỹ và huy động nguồn lực ngoài nhà nước; (3) nâng cao hiệu quả quản lý, chi tiêu hợp lý và minh bạch trong sử dụng nguồn tài chính; (4) bảo đảm tính bền vững và phát triển trong dài hạn.

Thực hiện tự chủ tài chính đối với các đơn vị thành viên, trực thuộc, ĐHQGHN đã rà soát, đẩy mạnh những đơn vị đáp ứng điều kiện thực hiện cơ chế tự chủ tài chính chi thường xuyên và chi đầu tư (nhóm 1), tự chủ tài chính chi thường xuyên (nhóm 2) và tăng mức độ tự chủ chi thường xuyên (nhóm 3). Bên cạnh đó, ĐHQGHN đã hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc theo các quy định của Bộ Tài chính. Trên cơ sở đó, các đơn vị đã chủ động xây dựng đề án, phương án tự chủ tài chính và báo cáo Giám đốc ĐHQGHN phê duyệt.

Mức độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm tài chính của các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc (đơn vị cấp 2) và đơn vị trực thuộc đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc (đơn vị cấp 3) được thực hiện qua các tiến trình sau:

Năm 2021, ĐHQGHN giao quyền tự chủ tài chính cho 39/39 đơn vị thành viên và trực thuộc, trong đó có 08/39 đơn vị tự chủ toàn bộ chi thường xuyên, 29/39 đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và 02/39 đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên. Năm 2021-2022, ĐHQGHN đã bảo đảm 21% đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính và tăng dần tỷ lệ qua các năm 2023-2024 lần lượt là 31%, 36%; đến năm 2025, ĐHQGHN đã có 41% đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính(2).

Năm 2023, ĐHQGHN tiếp tục xây dựng và trình Bộ Tài chính phương án phân loại tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp các năm 2023-2025. Theo đó, ĐHQGHN giao quyền tự chủ tài chính cho 03 đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư (Trường Quản trị và Kinh doanh, Trường Quốc tế và Bệnh viện ĐHQGHN); 09 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên, trong đó có 07 đơn vị cấp 2 (Trường Đại học Công nghệ, Trường Đại học Kinh tế, Trường Đại học Luật, Khoa Khoa học liên ngành, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục, Trung tâm Chuyển giao tri thức và Hỗ trợ khởi nghiệp, Viện Tài nguyên và Môi trường), 02 đơn vị cấp 3 (Trường trung học phổ thông Khoa học Giáo dục trực thuộc Trường Đại học Giáo dục và Nhà khách ĐHQGHN tại Hòa Lạc thuộc Trung tâm Quản lý đô thị đại học); 25 đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên, trong đó có 06 trường đại học thành viên); 02 đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên (Tạp chí Khoa học ĐHQGHN và Ban Quản lý dự án Trường Đại học Việt Nhật). Bên cạnh đó, ĐHQGHN có thêm một đơn vị sự nghiệp công lập mới được tiếp nhận về từ Bộ Xây dựng (Bệnh viện Xây dựng) và tổ chức lại thành Bệnh viện Đại học Y Dược. Bệnh viện Đại học Y Dược được giao quyền tự chủ tài chính ở mức tự bảo đảm một phần chi thường xuyên giai đoạn 2023-2025.

Đến năm 2024, sau khi rà soát và nâng mức độ tự chủ cho một số đơn vị, ĐHQGHN có 03 đơn vị tự chủ chi thường xuyên và đầu tư (nhóm 1), 11 đơn vị tự chủ chi thường xuyên (nhóm 2), 24 đơn vị tự chủ một phần chi thường xuyên (nhóm 3) và 01 đơn vị do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (nhóm 4).

ĐHQGHN đã ban hành nhiều quy chế, quy định, hoàn thiện cơ chế tài chính theo hướng hiệu lực, hiệu quả, phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của ĐHQGHN và của các đơn vị thành viên, trực thuộc, như quyết định về phân cấp thẩm quyền ban hành tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị chuyên dụng tại các đơn vị thành viên và trực thuộc; các đơn vị thành viên và trực thuộc đã xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật, giá dịch vụ đào tạo; ban hành quy định thẩm quyền quyết định mua sắm tài sản, trang thiết bị, hàng hóa, dịch vụ phục vụ hoạt động; quy định về tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô v.v..

Các đơn vị thành viên và trực thuộc ĐHQGHN đã thực hiện hiệu quả việc tự chủ tài chính, ngày càng thể hiện vai trò tích cực trong đóng góp cho xã hội với nhiều dịch vụ công cùng với các hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo có chất lượng cao.

Một số trường đại học thành viên (Trường Đại học Y Dược, Trường Đại học Ngoại ngữ, v.v.) hướng tới tự chủ, dự kiến thực hiện lộ trình tăng học phí theo đề xuất trong Phương án tự chủ tài chính giai đoạn 2026-2030. Đồng thời, các trường đại học thành viên đã triển khai tính định mức kinh tế - kỹ thuật các ngành đào tạo theo quy định của Thông tư số 14/2019/TT-BGDT ngày 30-8-2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo để báo cáo ĐHQGHN phê duyệt, làm cơ sở xác định giá học phí theo lộ trình.

Ngoài ra, để thực hiện tự chủ tài chính đủ mạnh, ĐHQGHN tích cực phát triển các chương trình liên kết đào tạo quốc tế, nghiên cứu khoa học ứng dụng và chuyển giao công nghệ để tạo nguồn thu bền vững.

Tuy vậy, quá trình thực hiện vẫn còn một số khó khăn, bất cập là:

Một là, tăng mức độ tự chủ của các đơn vị thành viên, trực thuộc còn gặp khó khăn, do thu tại đơn vị vẫn chủ yếu dựa vào nguồn thu từ hoạt động đào tạo; khai thác các nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học, thu từ các dịch vụ, thu từ hoạt động đầu tư, tài trợ, liên danh, liên kết còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Thặng dư, tích lũy của các đơn vị chưa nhiều.

Hai là, quy định về nguồn kinh phí thực hiện cải cách tiền lương chưa phù hợp với thực tế. Việc chi trả thu nhập tăng thêm cho cán bộ, viên chức và người lao động còn thông qua các quỹ, chưa được tính vào chi phí, làm tăng chi phí của đơn vị, việc xác định chênh lệch thu - chi của các đơn vị còn nhiều bất cập và chưa phù hợp với thực tế. Việc thu thuế doanh nghiệp (2%) đối với các cơ sở giáo dục đào tạo làm tăng chi phí của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Trong khi đó, công tác khai thác tài sản công vào mục đích kinh doanh dịch vụ, cho thuê, liên doanh, liên kết chưa hiệu quả, thủ tục còn rườm rà. Các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc ĐHQGHN hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đào tạo còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi của các tổ chức tín dụng do vướng mắc liên quan đến thủ tục về tài sản bảo đảm, thủ tục thẩm định nguồn trả nợ.

Ba là, quy định việc chuyển đổi số lượng đơn vị gặp nhiều khó khăn do mức độ tự chủ của các đơn vị nhóm 3 có thể thay đổi hằng năm phụ thuộc vào tình hình tài chính của đơn vị.

Bốn là, khó khăn trong công tác phát triển cán bộ khoa học khi cán bộ, viên chức không được đăng ký thành lập doanh nghiệp.

2.2. Kết quả thực hiện tự chủ tài chính ở Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Tháng 4-2024, trong số 35 đơn vị (07 trường đại học, 1 viện thành viên và 27 đơn vị trực thuộc), Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) có 23 đơn vị đã tự chủ tài chính tự bảo đảm chi thường xuyên (nhóm 2) và 12 đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (nhóm 3). Trong 7 trường đại học thành viên, đã có 06 trường thực hiện tự chủ nhóm 2, chỉ còn 1 trường thực hiện tự chủ nhóm 3 (Trường Đại học An Giang).

Đối với các đơn vị trực thuộc có chức năng phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, ĐHQG-HCM đã thành lập hội đồng quản lý theo quy định. Hội đồng quản lý có chức năng quản trị, điều hành nhằm bảo đảm hoạt động đơn vị gắn liền với Chiến lược phát triển ĐHQG-HCM giai đoạn 2021-2025 và đồng thời bảo đảm mức độ tự chủ để đơn vị sáng tạo và phát triển.

Đến năm 2025, ĐHQG-HCM có 22/35 đơn vị tự chủ tài chính nhóm 2 và 13/35 đơn vị tự chủ tài chính nhóm 3; giảm 33% chi thường xuyên (266 tỷ) từ ngân sách nhà nước so với các năm 2016-2020(3).

ĐHQG-HCM đã ban hành nhiều quy chế, quy định, hoàn thiện cơ chế tài chính theo hướng hiệu lực, hiệu quả, phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Cụ thể: ban hành quy định về cơ chế tài chính, về quản lý sử dụng tài sản, quy định về khoa học, công nghệ, quy chế đào tạo, phê duyệt đề án vị trí việc làm, xây dựng và hướng dẫn các đơn vị thành viên và trực thuộc xây dựng các đề án đổi mới cơ chế hoạt động, quy chế tài chính, v.v..

Năm 2024, ĐHQG-HCM tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện cơ chế tài chính như quy định thí điểm phân cấp quản lý tài chính, tài sản công thuộc phạm vi quản lý của ĐHQG-HCM cũng như các quy trình quản lý tài chính, tài sản công: (1) quy trình dự toán và giao nhiệm vụ ngân sách nhà nước; (2) quy trình thẩm tra, phê duyệt quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành; (3) quy trình thẩm định và phê duyệt đề án sử dụng tài sản công vào mục đích cho thuê, liên doanh, liên kết của các đơn vị thành viên và trực thuộc; (4) quy trình quản lý nguồn thu trích nộp về ĐHQG-HCM; (5) quy trình xác định và thông báo chỉ tiêu tuyển sinh tại ĐHQG-HCM.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn còn một số khó khăn trong việc nâng cao mức độ tự chủ tài chính. Nguồn thu chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động đào tạo, trong khi việc khai thác các nguồn thu từ nghiên cứu khoa học, dịch vụ, đầu tư, tài trợ, liên danh và liên kết còn hạn chế. Điều này dẫn đến thặng dư và tích lũy tài chính của các đơn vị còn khiêm tốn, hạn chế khả năng tái đầu tư và mở rộng hoạt động, đồng thời ảnh hưởng đến tính bền vững trong quản lý tài chính. Các đơn vị thành viên và trực thuộc trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi từ các tổ chức tín dụng, chủ yếu do vướng mắc liên quan đến thủ tục bảo đảm tài sản và quy trình thẩm định khả năng trả nợ. Những rào cản này hạn chế khả năng huy động vốn bên ngoài, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mở rộng đầu tư, phát triển cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng đào tạo.

2.3. Một số giải pháp chủ yếu

Một là, áp dụng cơ chế ngừng giao ngân sách chi thường xuyên sau 3-5 năm cho các đơn vị sự nghiệp công lập để bảo đảm ổn định tài chính

Điều này giúp các trường đại học hoàn thiện cơ chế quản trị nội bộ theo mô hình tự chủ; đa dạng hóa nguồn thu từ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đào tạo chất lượng cao; xây dựng quỹ phát triển bền vững (quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển); giảm áp lực tăng học phí đột ngột - tránh tác động tiêu cực đến sinh viên và mục tiêu công bằng giáo dục.

Đối với các trường đại học công lập chưa thuộc nhóm tự chủ cao, lộ trình này còn quan trọng hơn vì họ thiếu lợi thế thương hiệu, năng lực nghiên cứu, và thị trường dịch vụ chưa đủ mạnh. Do đó, cơ chế “ngừng giao chi thường xuyên sau 3 - 5 năm” cần áp dụng linh hoạt, có đánh giá giữa kỳ và theo mức độ cải thiện năng lực tài chính của từng cơ sở đào tạo đại học công lập trong thời gian tới.

Hai là, sớm ban hành văn bản hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung kịp thời nhằm tháo gỡ khó khăn về tài chính cho giáo dục đại học

Một trong những hạn chế lớn nhất hiện nay là hệ thống văn bản hướng dẫn thực thi Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), Nghị định số 60/2021/NĐ-CP về tự chủ tài chính và các nghị định liên quan đến quản lý tài sản công vẫn còn chậm hoàn chỉnh. Do đó, cần sớm có văn bản hướng dẫn chi tiết để các trường vận hành mô hình tự chủ tài chính hiệu quả. Trong đó, làm rõ chi phí hợp lý, hợp lệ trong xác định giá dịch vụ đào tạo; hướng dẫn thống nhất cơ chế kiểm soát nhiệm vụ thường xuyên theo kết quả đầu ra; cụ thể hóa quyền tự chủ của đại học hai cấp, đặc biệt trong đầu tư, mua sắm, quản lý nguồn thu; cho phép thí điểm một số cơ chế đặc thù về tài chính đối với đại học nghiên cứu, trường trọng điểm quốc gia.

Ba là, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung chính sách học phí, học bổng, vay vốn sinh viên để phù hợp với nhu cầu và tình hình thực tế

Việt Nam áp dụng chính sách tín dụng đối với sinh viên từ năm 1998 với mức vay tối đa 150.000đồng/tháng. Từ năm 1998 đến nay, quy định về tín dụng sinh viên đã được sửa đổi nhiều lần. Hiện nay, chính sách tín dụng cho sinh viên đang thực hiện theo Quyết định số 1656/QĐ-TTg ngày 19-11-2019 của Thủ tướng Chính phủ. Mặc dù, các quy định về chính sách tín dụng cho sinh viên đã được sửa đổi, nhưng nhìn chung vẫn mang tính chất là chính sách bảo trợ xã hội, hỗ trợ cho các trường hợp khó khăn tài chính hơn là một chính sách tài chính cho giáo dục đại học, vì vậy chính sách này có nhiều hạn chế về đối tượng được vay, mức cho vay thấp, thời hạn cho vay ngắn, thủ tục và phương thức vay phức tạp...

Hiện nay, học phí đang là nguồn thu quan trọng (chiếm 25-50% của các trường), nhưng quy định về học phí còn cứng nhắc, chưa phản ánh chi phí đào tạo thực tế. ĐHQGHN và ĐHQG-HCM hiện phải duy trì mức học phí theo khung giá chung, gây hạn chế trong đầu tư nâng cao chất lượng, đặc biệt đối với ngành yêu cầu cơ sở vật chất lớn (công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật, y - dược). Do đó cần: (i) cho phép trường đại học tự xác định mức học phí theo định mức kinh tế - kỹ thuật, có sự kiểm soát của Nhà nước đối với các ngành cơ bản, ngành ưu tiên; (ii) gắn tăng học phí với cam kết chất lượng đầu ra, công khai đánh giá độc lập; (iii) mở rộng chính sách học bổng - hỗ trợ học phí cho nhóm yếu thế; (iv) mở thêm gói vay sinh viên theo thu nhập (income-contingent loan), như mô hình của Ôtxtruâylia, Niu Dilân.

Bên cạnh đó, nghiên cứu để mở rộng diện được vay của Ngân hàng chính sách; điều chỉnh mức vay (hiện là 4 triệu đồng/tháng) để sinh viên có thể chi tiêu bằng nhóm trung bình của xã hội và đủ tiền nộp học phí. Ngoài ra, lãi suất cho sinh viên vay giảm về 3-4% năm (hiện khoảng 5-6%) hoặc chia theo lộ trình (thời gian đi học được lãi suất ưu đãi 3-4% năm; sau khi ra trường thì mức cao hơn). Thời gian vay tối thiểu cũng cần được điều chỉnh thành 15 năm hoặc gấp 3 lần thời gian học. Đồng thời, xem xét ban hành chính sách cho sinh viên vay thương mại.

Bốn là, kiến nghị xây dựng lộ trình tự chủ cho các đơn vị kéo dài hơn lộ trình quy định tại Nghị định số 60/2021/NĐ-CP

Khác với nhiều ngành dịch vụ công khác, giáo dục đại học có vòng đời đầu tư dài, chi phí cao và tính bền vững tài chính phụ thuộc vào quy mô tuyển sinh, nhu cầu xã hội và tốc độ đổi mới công nghệ. Nhiều ngành đào tạo chủ chốt của ĐHQGHN, ĐHQG-HCM, như khoa học cơ bản, toán - tin, công nghệ lõi, khoa học xã hội nhân văn, v.v., không thể tự cân đối tài chính nếu chỉ dựa vào học phí.

Do đó, lộ trình tự chủ đối với các ngành đặc thù cần kéo dài hơn quy định chung trong Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, có thể từ 8-10 năm, nhằm giúp các trường đủ thời gian tái cấu trúc ngành nghề, phát triển nguồn thu từ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Đây cũng là kinh nghiệm của các đại học quốc gia Nhật Bản, Hàn Quốc, Xinhgapo - nơi quá trình tự chủ được chia thành nhiều giai đoạn và luôn gắn với sự hỗ trợ ổn định từ nhà nước.

Năm là, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quyết định định mức tài sản sử dụng vào mục đích có tính chất kinh doanh dịch vụ gắn với kiểm soát chặt chẽ tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản ngay từ khâu lập, phê duyệt kế hoạch xây dựng mới, mua sắm, nâng cấp, cải tạo công trình sự nghiệp và các tài sản khác

ĐHQGHN và ĐHQG-HCM sở hữu hệ thống tài sản lớn, gồm phòng thí nghiệm, trạm nghiên cứu, khu học tập, ký túc xá, đất đai và các công trình sự nghiệp. Tuy nhiên, cơ chế xin - cho trong đầu tư và mua sắm hiện nay khiến nhiều dự án bị chậm tiến độ, thiết bị xuống cấp hoặc lạc hậu trước khi đưa vào sử dụng. Do đó, cần giao quyền tự chủ cao hơn cho các trường trong việc phê duyệt kế hoạch đầu tư, mua sắm, sửa chữa, mở rộng cơ sở vật chất, đồng thời cho phép khai thác tài sản công vào mục đích dịch vụ theo nguyên tắc tự chủ - tự chịu trách nhiệm.

Tuy nhiên, việc phân quyền phải đi kèm với cơ chế kiểm tra, giám sát độc lập; quy trình công khai, minh bạch; báo cáo kiểm toán định kỳ và chế tài xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Mô hình này đã được ĐHQG-HCM thử nghiệm ở một số đơn vị và cho thấy hiệu quả rõ rệt trong rút ngắn thời gian thực hiện, giảm chi phí và tăng hiệu quả khai thác tài sản.

Sáu là, mở rộng đối tượng được sử dụng tài sản nhà nước giao vào mục đích sản xuất - kinh doanh dịch vụ, cho thuê, liên doanh, liên kết

Điều này nhằm mục đích kinh doanh, cho thuê, hợp tác với doanh nghiệp giúp các trường tăng thêm nguồn thu để tái đầu tư cho đào tạo. ĐHQGHN có tiềm năng lớn trong khai thác tài sản như phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu, khu thể thao - văn hóa, ký túc xá, không gian sáng tạo, v.v.. Việc mở rộng đối tượng sử dụng sẽ tăng hiệu quả khai thác tài sản, nâng cao mức độ xã hội hóa và tạo thêm môi trường học tập - thực hành cho sinh viên.

Bảy là, miễn tiền thuê đất đối với việc sử dụng tài sản công vào mục đích cho thuê, liên kết

Chi phí thuê đất là gánh nặng đáng kể đối với các trường đại học có quy mô lớn như ĐHQGHN và ĐHQG-HCM, đặc biệt khi triển khai các mô hình liên doanh, liên kết hoặc dịch vụ hỗ trợ sinh viên. Việc miễn tiền thuê đất không chỉ giảm chi phí cho các trường mà còn tạo điều kiện phát triển các mô hình hợp tác với doanh nghiệp, xây dựng khu công nghệ đổi mới sáng tạo trong khuôn viên trường, góp phần thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp và các hoạt động nghiên cứu, phát triển.

3. Kết luận

Việc thực hiện tự chủ tài chính tại các trường đại học công lập đã đem lại những chuyển biến đáng kể. ĐHQGHN, ĐHQG-HCM đã chủ động lập kế hoạch ngân sách, quản lý nguồn thu và phân bổ chi hợp lý, đồng thời tăng cường khai thác các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước. Các mô hình quản trị hiện đại, mở rộng hợp tác quốc tế và thúc đẩy nghiên cứu khoa học đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực và cải thiện chất lượng đào tạo. Tuy vậy, mức độ tự chủ giữa các trường vẫn không đồng đều, phụ thuộc vào năng lực quản trị và đặc thù hoạt động của từng đơn vị. Để đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết số 19-NQ/TW trong kỷ nguyên mới, các trường cần hoàn thiện khung pháp lý, mở rộng quyền tự chủ về tài chính, nhân sự và đào tạo, đồng thời tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình. Việc nâng cao năng lực quản trị tài chính, đa dạng hóa nguồn thu qua học phí, dịch vụ, tài trợ nghiên cứu và hợp tác quốc tế là hết sức cần thiết.

_________________

Ngày nhận: 28-11-2025; Ngày bình duyệt: 9-12-2025; Ngày duyệt đăng: 13-12-2025.

Email của tác giả: truongqltc@gmail.com

(1) Nguyễn Anh Tuấn: “Tự chủ tài chính trong các trường đại học của Việt Nam: Thực trạng và những khuyến nghị, Tạp chí Khoa học giáo dục Việt Nam, t.20, số 03-2024, tr.9-10.

(2) Đại học Quốc gia Hà Nội: Báo cáo kết quả thực hiện tự chủ tài chính của Đại học quốc gia Hà Nội theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (phục vụ Đoàn công tác của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ngày 12-3-2025).

(3) Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh: Báo cáo kết quả thực hiện tự chủ tài chính của Đại học Quốc gia Thành phố H Chí Minh theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (phục vụ Đoàn công tác của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ngày 28-3-2025).

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Thực hiện tự chủ tài chính trong các cơ sở giáo dục đại học - Nghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
    POWERED BY