(LLCT) - Vấn đề hạnh phúc luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý và trở thành hệ giá trị được nhiều quốc gia theo đuổi trong những năm gần đây. Vấn đề hạnh phúc đã sớm được Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong kỷ nguyên độc lập, thống nhất của dân tộc Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Bài viết khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc và việc vận dụng tư tưởng của Người trong xây dựng Việt Nam hạnh phúc trong kỷ nguyên phát triển mới.
ThS NGUYỄN THỊ THU
Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
1. Mở đầu
Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại với đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin về hạnh phúc vào điều kiện cách mạng Việt Nam, mở ra cuộc sống hạnh phúc cho toàn thể dân tộc trong kỷ nguyên độc lập, thống nhất sau hàng trăm năm bị đô hộ, áp bức. Bước vào kỷ nguyên phát triển mới, tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc tiếp tục là “cẩm nang thần kỳ” cho Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn thành sứ mệnh trước dân tộc.
2. Nội dung
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc
Thứ nhất, hạnh phúc là được cống hiến trọn vẹn cho lý tưởng cao đẹp
Với tinh thần luôn đặt lợi ích của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân trên tất cả, Hồ Chí Minh xem hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời mình là được cống hiến trọn vẹn cho hạnh phúc của dân tộc. Chính khát vọng hạnh phúc lớn lao này đã trở thành nguồn sức mạnh giúp Hồ Chí Minh chiến thắng mọi khó khăn, hiểm nguy trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại tự do cho nhân dân. J. Xanhtơny - một người từng “đối diện với Hồ Chí Minh” đã khẳng định: “chắc chắn ông ta đã là một người hạnh phúc nhất đời rồi”(1).
Là lãnh tụ cách mạng Việt Nam, coi hạnh phúc của dân tộc là lẽ sống, Hồ Chí Minh đặt ra mục tiêu để Đảng và Chính phủ không ngừng phấn đấu “gắng làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc”(2). Để thực hiện được lý tưởng cao đẹp này, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên cần phải tìm thấy ý nghĩa trong nhiệm vụ cống hiến vì hạnh phúc của quốc gia, dân tộc. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên tự tu dưỡng và không ngừng rèn luyện bản thân ít lòng ham muốn vật chất; với công việc, Người căn dặn “vì hạnh phúc của dân tộc… phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng”(3).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc đã được minh chứng bằng chính cuộc đời của Người, một cuộc đời thanh cao và luôn sẵn sàng hy sinh hạnh phúc cá nhân “để đưa chiếc thuyền Tổ quốc vượt khỏi những cơn sóng gió, mà an toàn đi đến bờ bến hạnh phúc của nhân dân”(4). Hồ Chí Minh đã mở ra kỷ nguyên hạnh phúc cho toàn thể dân tộc Việt Nam bằng những việc làm, sự cống hiến của Người cho giải phóng dân tộc, cho sự nghiệp “trồng người” vì tương lai tươi sáng của đất nước.
Thứ hai, hạnh phúc gắn liền độc lập, tự do
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là tiêu ngữ Hồ Chí Minh đặt cho Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Việt Nam. Theo đó, hạnh phúc là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do; hạnh phúc đồng thời là điều kiện cơ bản giữ vững độc lập, tự do. Đặc biệt, hạnh phúc đóng vai trò khẳng định và củng cố giá trị của độc lập, tự do. Giành lại độc lập, tự do mà không được thừa hưởng hạnh phúc thì cuộc đấu tranh đó không triệt để. Trong điều kiện nền độc lập, tự do “non trẻ” phải đối mặt với tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, Hồ Chí Minh vẫn quyết liệt chỉ đạo: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(5). Bởi lẽ, có ăn, có mặc, được học hành…, là thỏa mãn nhu cầu sống cơ bản của con người, vậy nên, hạnh phúc là nhiệm vụ hàng đầu nhằm hiện thực hóa thành quả cách mạng.
Hạnh phúc gắn với độc lập, tự do là chân lý trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, Hồ Chí Minh đã bổ sung tính cách mạng, triệt để cho hạnh phúc thực sự của dân tộc Việt Nam. Hạnh phúc không chỉ là động lực đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam mà còn góp phần cổ vũ nhân dân cần lao trên khắp thế giới đứng dậy đấu tranh cho hạnh phúc của chính mình. Như lời ngợi ca của Rômét Chanđra, nguyên Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”(6). Như vậy, không chỉ nỗ lực đấu tranh hiện thực hóa giá trị hạnh phúc gắn liền độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh còn đem lại hạnh phúc thực sự, triệt để cho nhân loại.
Thứ ba, hạnh phúc gắn liền công bằng, bình đẳng
Hạnh phúc gắn liền công bằng, bình đẳng là mục tiêu, lý tưởng đấu tranh mà Hồ Chí Minh theo đuổi cho mọi giai tầng trong xã hội. Người khẳng định: “Việc thủ tiêu bất bình đẳng về hưởng thụ, hạnh phúc không phải cho một số đông mà cho tất cả mọi người”(7). Là nhà tư tưởng tiến bộ, Hồ Chí Minh luôn xem hạnh phúc là quyền lợi chính đáng mà mọi quốc gia, dân tộc đều xứng đáng được hưởng. Hồ Chí Minh tán thành những tuyên bố “lẽ phải” đã được nhân loại tiến bộ thừa nhận: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Họ được đấng tạo hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm; trong số đó có cuộc sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc”(8), nhưng Người đã mở rộng tối đa quyền hạnh phúc trong công bằng, bình đẳng là thuộc về “tất cả các dân tộc trên thế giới”(9). Bằng trái tim yêu thương con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và bổ sung hoàn chỉnh cho giá trị của hạnh phúc; chủ thể thụ hưởng hạnh phúc được khái quát từ dân tộc ra nhân loại, từ quốc gia đến toàn thế giới.
Để hạnh phúc là thước đo của một xã hội công bằng, bình đẳng, của tiến bộ xã hội, theo Hồ Chí Minh, cần phải đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười vì “đã mở ra kỷ nguyên mới không những cho nước Nga, mà cho cả thế giới, nó ảnh hưởng đến nội bộ tiến hóa của các nước trên thế giới”(10). Đó là kỷ nguyên của chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn đầu là CNXH. Với bản chất cách mạng và triệt để, kỷ nguyên mới bảo đảm tương lai hạnh phúc và công bằng, bình đẳng cho toàn nhân loại. Hồ Chí Minh phân tích: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(11). Như vậy, Hồ Chí Minh đã mở rộng nhận thức từ hạnh phúc con người Việt Nam đến hạnh phúc nhân loại; chỉ có chế độ xã hội XHCN, chủ nghĩa cộng sản mới bảo đảm con người có hạnh phúc trong công bằng, bình đẳng thật sự và triệt để.
Thứ tư, hạnh phúc là sự sẻ chia và đoàn kết
Hạnh phúc là sẻ chia và đoàn kết, bởi lẽ: “muốn thắng lợi thì mỗi người phải dựa vào lực lượng của số đông người, tức là của tập thể, của xã hội. Riêng lẻ từng cá nhân thì nhất định không thắng nổi tự nhiên, không sống còn được”(12). Phân tích sâu sắc của Hồ Chí Minh đã cho thấy, sẻ chia và đoàn kết là phương thức để con người sinh tồn, vượt qua mọi khó khăn, thử thách; vậy nên, cô lập, tách biệt khỏi cộng đồng là “sự thiệt thòi” của mỗi cá thể. Có thể nói, hạnh phúc vừa là kết quả của sẻ chia và đoàn kết; ngược lại, sẻ chia và đoàn kết là phương thức xây dựng hạnh phúc bền chặt. Như vậy, sẻ chia và đoàn kết đóng vai trò quan trọng hàng đầu góp phần gia tăng giá trị của hạnh phúc, làm cho hạnh phúc trở thành giá trị nhân văn, cao thượng. Với ý nghĩa cao đẹp đó, Hồ Chí Minh không ngừng cổ vũ, khích lệ hạnh phúc trong sẻ chia và đoàn kết xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. “Vì đơn độc sẽ làm mồi cho hiểm họa. Từ đoàn kết hạnh phúc sẽ sinh sôi”(13).
Hạnh phúc là sẻ chia và đoàn kết ở đây không hiểu là chia nhỏ, chia đều hoặc cào bằng. Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn cách giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa hạnh phúc cá nhân (hạnh phúc riêng) và hạnh phúc cộng đồng (hạnh phúc chung). Người nhấn mạnh, mỗi con người phải tự chống lại “chủ nghĩa cá nhân” bên trong mình mà “đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết”(14), khi đó, hạnh phúc của cộng đồng được vun đắp từ nhiều cá thể hạnh phúc. Một mặt, nhấn mạnh hạnh phúc chung của quốc gia, dân tộc, mặt khác, Hồ Chí Minh chăm lo toàn diện cho hạnh phúc chính đáng của mỗi cá nhân con người. Hồ Chí Minh căn dặn, công cuộc “đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân” không nhầm lẫn thành “giày xéo” lên hạnh phúc cá nhân(15). Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh không chỉ tôn trọng mà luôn tìm mọi cách để chăm lo chu đáo, bảo đảm hạnh phúc riêng của mỗi người dân.
Hạnh phúc là sẻ chia và đoàn kết vừa mang đậm bản sắc tinh hoa văn hóa Việt Nam, vừa mang đậm chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Hạnh phúc là sẻ chia và đoàn kết trở thành cội nguồn sức mạnh làm nên mọi thắng lợi cho cách mạng Việt Nam, cổ vũ nhân loại tiến bộ xây dựng thế giới hạnh phúc với ý nghĩa nhân văn nhất. Với luận điểm này, Hồ Chí Minh đã có đóng góp quan trọng vào nhận thức về hạnh phúc của nhân loại theo ý nghĩa tích cực nhất.
Thứ năm, hạnh phúc là trạng thái phát triển cân bằng và bền vững
Hạnh phúc là trạng thái phát triển cân bằng và bền vững, nghĩa là nhu cầu đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người được đáp ứng cân đối, hài hòa. Về chăm lo đời sống vật chất, Hồ Chí Minh kêu gọi thực hiện “tăng gia sản xuất”, “hũ gạo tình thương”... tiến tới hạnh phúc “có ăn” cho toàn dân tộc khi bước ra từ nạn đói năm 1945. Hạnh phúc trở nên cao quý và thiêng liêng hơn khi trong mỗi bát cơm người dân ăn có hạt gạo “nhường cơm sẻ áo”.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của C.Mác “lao động là nguồn gốc của hạnh phúc”(16), Hồ Chí Minh cổ vũ người dân tích cực tăng gia sản xuất, đồng thời thực hành tiết kiệm để được thừa hưởng hạnh phúc bền vững từ thành quả lao động do chính bản thân mình tạo ra. Hồ Chí Minh nhắn nhủ mỗi người dân rằng: “Tăng gia và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”(17). Trong điều kiện kinh tế đất nước khó khăn, Hồ Chí Minh đã quan tâm xây dựng Việt Nam hạnh phúc với cơ hội đủ đầy, ấm no cho tất cả mọi người dân.
Về chăm lo đời sống tinh thần, Hồ Chí Minh coi là nhiệm vụ thiết yếu, quan trọng không kém so với chăm lo đời sống vật chất. Từ thấu hiểu sâu sắc về con người, Hồ Chí Minh tôn trọng và không ngừng thỏa mãn khát vọng hạnh phúc trong sự phát triển toàn diện cả về trí lực, thể lực cho mỗi người dân. Do vậy, nhiệm vụ trọng tâm thứ hai được Hồ Chí Minh đề nghị thực hiện ngay sau khi giành được chính quyền là xóa nạn mù chữ. Thông qua phong trào “bình dân học vụ”, “đời sống mới”, cả dân tộc Việt Nam đã chiến thắng “giặc dốt”, từng bước nâng cao trình độ dân trí, không ngừng phát triển trí lực. Xây dựng môi trường sống nhiều cây xanh cũng là việc cần thiết góp phần gia tăng an vui, hạnh phúc trong đời sống tinh thần. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh quan tâm chỉ đạo việc thường xuyên trồng cây gây rừng, nhằm bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển đất nước.
Để hạnh phúc đạt được trong trạng thái phát triển cân bằng và bền vững thì cần quan tâm bảo đảm hạnh phúc của những người có công với cách mạnh, những người yếu thế. Hồ Chí Minh căn dặn: “Chúng ta phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân, nhất là đời sống của các cháu, của các gia đình thương binh, liệt sĩ, đời sống của nhân dân ở những vùng bị địch bắn phá nhiều… những gia đình thu nhập thấp và đông con”(18). Như vậy, từ nội dung hạnh phúc, Hồ Chí Minh đã không ngừng mở rộng ý nghĩa của hạnh phúc gắn với trạng thái xã hội phát triển cân đối, hài hòa và bền vững.
2.2. Định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc trong kỷ nguyên phát triển mới
Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc đã được Đảng ta vận dụng và lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng ở kỷ nguyên độc lập, thống nhất (1930 - 1975), kỷ nguyên đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 2025). Trong bước chuyển của dân tộc tiến vào kỷ nguyên phát triển cao, phồn vinh, hạnh phúc (từ năm 2025 trở đi)(19), tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc vẫn giữ nguyên tính thời sự sâu sắc, có vai trò là “kim chỉ nam” định hướng cho mọi nhận thức và hành động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc là cơ sở lý luận hình thành, phát triển quan điểm Đảng về đặc trưng hạnh phúc của mô hình CNXH Việt Nam. “Hạnh phúc” là thành tố cấu thành nên đặc trưng thứ tư trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thông qua tại Đại hội VII (năm 1991), đặc trưng thứ năm của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Điều này khẳng định sự kiên định của Đảng về vị trí, vai trò của hạnh phúc trong sự nghiệp cách mạng XHCN Việt Nam trước những biến động của thời đại. Thực tiễn gần 40 năm đổi mới đất nước cho thấy, việc xác định hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu phấn đấu, là nhân tố quan trọng quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục phát triển vấn đề hạnh phúc lên tầm cao mới, đưa vào quan điểm chỉ đạo tổng quát nhằm khơi dậy “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(20); thực hiện đồng thời nhiệm vụ cụ thể hóa “mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”(21).
Trong bước chuyển mình của dân tộc vào kỷ nguyên phát triển mới, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc cần chú ý thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, củng cố và nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về tầm quan trọng của hạnh phúc trong hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách xây dựng đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “hạnh phúc cần phải được coi là mục tiêu cuối cùng và đặc trưng tổng quát nhất trong mục tiêu, đồng thời là đặc trưng tổng quát của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng”(22). Tuyên truyền định hướng đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành lực lượng tiên phong “định vị” hạnh phúc của bản thân không tách rời hạnh phúc của quốc gia, dân tộc, sẵn sàng cống hiến “quên mình” vì hạnh phúc của cộng đồng, xã hội.
Hai là, thiết lập thang đo chỉ số hạnh phúc, hạnh phúc là chỉ số đo lường trình độ phát triển quốc gia trong kỷ nguyên phát triển mới. Hiện nay, trên thế giới có nhiều phương pháp đo lường chỉ số hạnh phúc với nhiều cấp độ khác nhau. Do vậy, việc lượng hóa hạnh phúc dựa trên cơ sở nền tảng lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc là tất yếu đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại, phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Chuẩn hóa thang đo chỉ số hạnh phúc chung toàn quốc, chỉ số hạnh phúc của các nhóm xã hội để mọi người dân đều được hưởng hạnh phúc thực sự trong thực tế đúng theo di nguyện Hồ Chí Minh là làm cho “ai nấy đều có phần hạnh phúc”...
Sử dụng kết quả đo lường hạnh phúc làm tiêu chuẩn xây dựng đất nước không chỉ có ý nghĩa hiện thực hóa khát vọng hạnh phúc của Hồ Chí Minh, mà rộng hơn còn trực tiếp góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển nhân loại theo hướng tiến bộ và nhân văn.
Ba là, thực hiện đồng bộ, hiệu quả bảy định hướng chiến lược của Tổng Bí thư Tô Lâm(23). Trong đó, phát triển kinh tế với ưu tiên hàng đầu tập trung vào phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới, sáng tạo hướng đến nâng cao nền tảng vật chất cho một nước Việt Nam hạnh phúc. Người dân có thu nhập cao, việc làm ổn định là cơ sở tiền đề để cải thiện mức sống của người dân hướng đến hạnh phúc. Trước sự phát triển như vũ bão của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khoa học - công nghệ và đổi mới, sáng tạo quyết định trực tiếp tới năng suất lao động, cải thiện thu nhập của người dân, tăng tốc nền kinh tế nước ta “cán mốc” thu nhập trung bình cao (năm 2030), thu nhập cao (năm 2045). Cùng với kinh tế, cần đẩy mạnh cải thiện an sinh xã hội bằng hệ thống chính sách toàn diện bảo đảm sự công bằng cho người dân trong phân phối, tiếp cận giáo dục, y tế, việc làm, bảo hiểm xã hội, nhà ở, văn hóa… Ngoài hỗ trợ tài chính cho các nhóm yếu thế, Đảng và Nhà nước cần quan tâm xây dựng mạng lưới hỗ trợ để họ có thể tự nuôi sống bản thân và đóng góp cho xã hội.
Bốn là, xây dựng xã hội Việt Nam hạnh phúc trong kỷ nguyên phát triển mới với những con người “sống với nhau có tình, có nghĩa”(24). Dưới tác động mạnh mẽ của kỷ nguyên công nghệ, văn hóa và đạo đức truyền thống đang biến đổi sâu sắc và đặt ra nhiều thách thức cần giải quyết. Đảng và Nhà nước cần quan tâm bảo vệ quyền và lợi ích văn hóa cho người dân, không ngừng nâng cao chất lượng đời sống tinh thần cho nhân dân, sử dụng văn hóa để nuôi dưỡng tâm hồn con người… Đồng thời, cần tăng cường công tác giáo dục lý tưởng và giá trị sống đúng đắn, tích cực để mỗi người dân đều có một đời sống ý nghĩa trọn vẹn, chung tay xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Năm là, xây dựng hệ sinh thái Việt Nam hạnh phúc bằng tăng cường bảo vệ môi trường trong kỷ nguyên phát triển mới. Việc hiện thực hóa một Việt Nam hạnh phúc trong kỷ nguyên phát triển mới đòi hỏi phải tạo ra một môi trường tự nhiên xã hội và cân bằng, hài hòa và đáng sống. Ở kỷ nguyên độc lập, thống nhất của dân tộc, Hồ Chí Minh đã quan tâm sâu sắc và có những chỉ dẫn cụ thể cách ứng xử tích cực với môi trường, tạo dựng nền tảng sinh thái hạnh phúc bền chặt cho đất nước. Trong kỷ nguyên phát triển mới, hạnh phúc của người dân không giới hạn ở cơm ăn, áo mặc, học hành…, mà còn là theo đuổi một không gian sống phù hợp. Hơn nữa, hiện nay môi trường sinh thái đang suy thoái nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ số hạnh phúc quốc gia. Do vậy, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng kế hoạch bảo vệ môi trường thường xuyên, liên tục, một cách toàn diện, đồng bộ từ nâng cao khả năng “kiểm soát xanh” của Chính phủ bằng tăng cường hiệu quả từ hệ thống thể chế bảo vệ môi trường; biến khái niệm bảo vệ môi trường thành đòn bẩy cho các hoạt động đời sống xã hội; xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường sâu rộng trong mọi tầng lớp dân chúng; ưu tiên hàng đầu phát triển nông nghiệp sinh thái, hình thành nền “kinh tế xanh” bền vững; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu…
3. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc không chỉ dừng ở cấp độ hạnh phúc cá nhân mà bao hàm hạnh phúc của quốc gia, dân tộc. Trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc tiếp tục là kim chỉ nam định hướng xây dựng Việt Nam hạnh phúc, nơi mỗi người dân không chỉ có cuộc sống vật chất đủ đầy mà còn được sống trong một xã hội dân chủ, nhân ái và phát triển bền vững. Hạnh phúc phải trở thành đặc trưng của Việt Nam ở kỷ nguyên mới. Để hiện thực hóa khát vọng đó, Đảng và Nhà nước cần xác định hạnh phúc vừa là mục tiêu, vừa là động lực quy tụ và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã chọn lựa cho thế hệ hôm nay và mai sau.
_________________
Ngày nhận: 25-01-2025; Ngày bình duyệt: 13-3-2025; Ngày duyệt đăng: 13-3-2025.
Email tác giả: thunguyen010891@gmail.com
(1) J. Xanhtơny: “Một hiệp định không có ngày mai”, Tạp chí Planète Action, Pari, 3-1970, tr. 101.
(2), (3), (4), (5), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 64, 66, 191, 175, 1.
(6) Rô mét Chanđra: “Hồ Chí Minh trong trái tim nhân loại”, Báo Nhân Dân, ngày 21-5-1980.
(7) (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Sđd, tr.47, 496.
(8) Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, https://vi.wikipedia.org, truy cập ngày 19-02-2024.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđd, tr. 565.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr. 600.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Sđd, tr.503-504.
(14), (24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr. 547, 668.
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.298.
(16) Yíng lěi: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về hạnh phúc và việc xây dựng một Trung Quốc hạnh phúc”, Tạp chí Đại học Thành Đô, số 2005-5642 (2013) 08-0006-03 (tiếng Trung).
(17), (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr. 311, 694.
(19) Dẫn theo Nguyễn Văn Tài: “Cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Những định hướng đột phá mang tính cách mạng trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước”, tháng 12-2024.
(20), (21) Xem: ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.110, 216.
(22) Vũ Thị Kiều Phương: “Về đặc trưng hạnh phúc của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học số 09 (376), tháng 9-2022.
(23) Tổng Bí thư Tô Lâm: Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 01-11-2024.