(LLCT) - Văn hóa ứng xử là bộ phận cấu thành của văn hóa, hệ thống những giá trị tri thức, tình cảm, niềm tin, thái độ và hành vi của con người với môi trường tự nhiên, xã hội, được tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn. Bài viết phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên, chỉ rõ để tồn tại và phát triển bền vững, con người cần hiểu rõ sự tương tác giữa hoạt động sống của con người với môi trường tự nhiên, khai thác tài nguyên có trách nhiệm, tôn trọng các quy luật tự nhiên... Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên một cách bền vững theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
LÊ TRỌNG HƯNG
Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Phân hiệu Vĩnh Long
1. Đặt vấn đề
Bảo vệ môi trường tự nhiên đang là vấn đề cấp bách đối với các quốc gia trên thế giới. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Phát huy tối đa lợi thế của các vùng, miền; phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu”(1). Quan điểm của Đảng xuất phát từ việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ hài hòa giữa tự nhiên, xã hội, con người, bảo đảm cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nước ta còn hạn chế, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu v.v. Do đó, xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên một cách hài hòa, bền vững là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Quan điểm triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên; văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
Từ những năm 1840, C.Mác đã đề cập đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, đồng thời đưa ra nhiều luận chứng khoa học về mối quan hệ đó. Ph.Ăngghen trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên cũng đã phân tích mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nhìn chung, tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được thể hiện qua các luận điểm sau:
Thứ nhất, con người là sản phẩm của tự nhiên, là một bộ phận của tự nhiên, hoạt động của con người phải tuân theo những quy luật của tự nhiên. Một khi con người tác động thái quá, tận diệt, hoặc tận thu từ tự nhiên thì họ phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Cuối thế kỷ XIX, Ph.Ăngghen cảnh báo: “Chúng ta cũng không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta. Thật thế, mỗi một thắng lợi, trước hết là đem lại cho chúng ta kết quả mà chúng ta hằng mong muốn, nhưng đến lượt thứ hai, lượt thứ ba, thì nó lại gây ra những tác dụng hoàn toàn khác hẳn, không lường trước được, những tác dụng thường hay phá hủy tất cả những kết quả đầu tiên đó”(2) . Thực trạng môi trường tự nhiên hiện nay đã chứng minh lời cảnh báo sâu sắc của Ph.Ăngghen, điều đó cho thấy không phải chỉ có con người tác động, cải biến tự nhiên mà tự nhiên cũng tác động trở lại đối với con người, sự tác động trở lại của tự nhiên phụ thuộc vào chính sự tác động của con người với tự nhiên.
Trong hoạt động sản xuất, con người đã tác động, cải biến tự nhiên một cách mạnh mẽ và thu được từ tự nhiên lượng của cải, vật chất ngày càng nhiều để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người và xã hội. Với sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật, quá trình chinh phục tự nhiên của con người đã làm phá vỡ sự cân bằng vốn có của tự nhiên. Hậu quả là tự nhiên đã, đang và sẽ phá hủy con người vì những tác động vô ý thức mà con người gây ra.
Cảnh báo về những hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra trong tương lai, Ph.Ăngghen viết: “Nhưng nếu chúng ta đã phải trải qua hàng nghìn năm lao động mới có thể, trong một chừng mực nào đó, đánh giá trước được những hậu quả tự nhiên xa xôi của những hành động sản xuất của chúng ta, thì chúng ta lại càng phải trải qua nhiều khó khăn hơn nữa, mới có thể hiểu biết được những hậu quả xã hội xa xôi của những hành động ấy”(3).
Từ những quan điểm trên, Ph.Ăngghen đưa ra luận điểm có tính tổng kết về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên: “chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài giới tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và tuân thủ những quy luật đó một cách chính xác”(4). Nghĩa là, sự thống trị của con người đối với tự nhiên không phải là vô hạn, không phải là tuyệt đối. Chúng ta cần nhận thức được quy luật tự nhiên và tuân thủ những quy luật đó một cách chính xác để biến đổi tự nhiên theo chiều hướng tích cực, từ đó tự nhiên sẽ quay trở lại phục vụ nhu cầu của con người.
Như vậy, để điều chỉnh được mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, trước hết con người phải tự giác nhận thức được quy luật tự nhiên, và trên cơ sở đó tuân thủ những quy luật đó một cách chính xác trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong đó lĩnh vực cơ bản và quan trọng nhất là sản xuất vật chất.
Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên phụ thuộc chặt chẽ và bị quy định bởi mối quan hệ giữa con người với con người. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph. Ăngghen nhận định: “những quan hệ nhất định đó với giới tự nhiên, là do hình thức của xã hội quyết định và ngược lại”(5). Điều đó có nghĩa là, “con người và xã hội ứng xử với tự nhiên ra sao là tùy thuộc vào bản chất chế độ xã hội. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên hay văn hóa ứng xử của con người đối với tự nhiên không phải là một lĩnh vực hoạt động độc lập của con người mà nó phụ thuộc chặt chẽ và bị quy định bởi mối quan hệ giữa con người với con người hay văn hóa ứng xử của con người với xã hội”(6). Bởi vậy, khi con người có văn hóa thì nhận thức của con người cao hơn và mối quan hệ giữa con người với con người trở nên tốt đẹp hơn, từ đó kéo theo mối quan hệ giữa con người với tự nhiên cũng sẽ có văn hóa hơn, con người và tự nhiên sống trong sự hài hòa, nương tựa vào nhau, cùng nhau phát triển.
Con người có thể điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định con người là sản phẩm của tự nhiên, là bộ phận đặc thù của tự nhiên. Nghĩa là, con người và tự nhiên thống nhất biện chứng, làm tiền đề tồn tại cho nhau, con người bảo vệ tự nhiên cũng chính là bảo vệ cuộc sống của chính mình, khi con người không ứng xử hài hòa, thân thiện với tự nhiên thì tự nhiên sẽ tác động tiêu cực trở lại với con người.
Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên còn được C.Mác khẳng định trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, “Giới tự nhiên - cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực bản thân nó không phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên”(7). Ph.Ăngghen là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên của nhân loại đã lưu ý đến “con người cũng tác động trở lại tự nhiên, cải biến tự nhiên và tạo cho mình những điều kiện sinh tồn mới”(8). Như vậy, các ông đã nhấn mạnh đến quá trình chinh phục và cải biến tự nhiên trong tiến trình sản xuất xã hội, đến sự tác động của con người lên giới tự nhiên, chứ không phải chỉ có giới tự nhiên chi phối con người.
Sự thống nhất giữa con người và tự nhiên còn được thể hiện thông qua quá trình lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, nhờ lao động mà con người có khả năng chinh phục và cải biến các quá trình tự nhiên theo mục đích của mình. Trong quá trình sản xuất, thông qua lao động, con người đã làm biến đổi tự nhiên, thậm chí điều khiển tự nhiên theo mục đích của mình, sự khác biệt thể hiện ở chỗ “con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”(9). Con người không chỉ sử dụng tất cả những gì có sẵn của tự nhiên mà còn tác động, cải biến tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình. Tuy nhiên, “trong quá trình cải biến tự nhiên, con người đã có những sai lầm nghiêm trọng và hậu quả là tự nhiên đã và đang “trả thù” con người và xã hội loài người”(10). Mối quan hệ qua lại giữa con người và tự nhiên được thể hiện: “nếu canh tác được tiến hành một cách tự phát mà không được hướng dẫn một cách có ý thức... thì sẽ để lại sau đó đất hoang”(11). Như vậy, trong mối quan hệ biện chứng giữa con người với tự nhiên, con người cần nhận thức được những quy luật của tự nhiên và vận dụng vào trong sản xuất và sinh hoạt để giữ mối quan hệ hài hòa, thân thiện, bền vững với tự nhiên.
Thứ hai, về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên. Là sản phẩm của tự nhiên, trong quá trình sống, con người tác động vào tự nhiên, khai thác và sử dụng tự nhiên để tồn tại và phát triển. Sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội được biểu hiện ngay trong bản chất của con người: “Bản chất con người của tự nhiên chỉ tồn tại đối với con người xã hội; vì chỉ có trong xã hội, tự nhiên đối với con người mới là một cái khâu liên hệ con người với con người...; chỉ có trong xã hội, tồn tại tự nhiên của con người mới là tồn tại có tính chất người của con người đối với con người…”(12).
Trước những hậu quả ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu do con người gây ra, cần xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, trong đó con người sống hài hòa thật sự với tự nhiên, tôn trọng tự nhiên theo đúng bản chất nhân văn, nhân đạo vốn có của con người. Tư tưởng điển hình nhất về thái độ tôn trọng tự nhiên, bảo vệ giới tự nhiên được Ph.Ăngghen trình bày trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên. Ông cho rằng, sự tiến bộ của nền khoa học tự nhiên thế kỷ XIX, một mặt cho phép con người hiểu được ngày càng chính xác hơn các quy luật của tự nhiên, mặt khác giúp con người ngày càng cảm thấy và nhận ra sự phụ thuộc của mình vào giới tự nhiên, “mình với giới tự nhiên chỉ là một”(13).
2.2. Xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ở nước ta hiện nay
Ở nước ta, việc xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên góp phần định hướng hành vi có ý thức, trách nhiệm trong sinh hoạt và sản xuất, qua đó thúc đẩy lối sống hài hòa, bền vững, phát triển xã hội văn minh.
Dưới góc độ quản lý nhà nước, xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên phải dựa trên nền tảng pháp luật. Trong hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giữ vai trò chủ đạo, điều hành các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và chịu trách nhiệm đánh giá thực trạng và hoạch định chiến lược và định hướng phát triển văn hóa ứng xử với môi trường; có trách nhiệm xây dựng và triển khai các chương trình bảo vệ môi trường thông qua tuyên truyền, giáo dục, vận động và nêu gương nhằm nâng cao nhận thức và thúc đẩy hành động. Việc hình thành văn hóa ứng xử với môi trường dựa trên nền tảng pháp luật, đồng thời bảo đảm tính bền vững và sự tham gia tích cực của cộng đồng. Trong một xã hội pháp quyền, pháp luật đóng vai trò then chốt trong điều chỉnh hành vi của con người đối với môi trường. Do đó, việc thực thi nghiêm túc các quy định pháp luật, kết hợp với chế tài xử lý hiệu quả các vi phạm là yếu tố quan trọng để bảo vệ môi trường, duy trì trật tự xã hội và hướng tới phát triển bền vững.
Trong xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, người dân tham gia xây dựng kế hoạch, chương trình và tổ chức thực hiện, đồng thời là người hưởng thụ thành quả đó. Phát huy vai trò của người dân trong xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên còn bởi nguồn lực của nhà nước hạn hẹp trong khi nguồn lực trong nhân dân lại dồi dào. Đó không chỉ là tiền của, công sức mà còn cả trí tuệ của nhân dân và bởi đây là quá trình nâng cao môi trường sống cho chính mỗi người dân. Do đó, cần huy động tối đa các nguồn lực mới có thể đem đến thành công.
Những biểu hiện cụ thể trong văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên của người Việt
Một là, xây dựng triết lý sống “Thiên - Nhân hòa hợp”. Triết lý sống hài hòa với tự nhiên đã tồn tại từ lâu trong lịch sử dân tộc Việt Nam, dưới dạng tự phát thông qua các hoạt động cộng đồng và tiếp tục được duy trì, phát triển cho đến ngày nay. Nguyên tắc cốt lõi của triết lý này là nhận thức và tuân theo các quy luật tự nhiên, từ đó điều chỉnh hành vi phù hợp với điều kiện môi trường và khả năng thực hiện của con người. Sự hài hòa này thể hiện rõ qua sự kết hợp khéo léo giữa yếu tố tự nhiên và nhân tạo, đặc biệt biểu hiện trong kiến trúc nhà ở. Ví dụ, người dân quan niệm việc lựa chọn hướng nhà có vai trò quan trọng do ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, sự thoải mái và thịnh vượng của những người sống trong ngôi nhà đó. Vấn đề cảnh quan cũng luôn được chú trọng nhằm duy trì sự cân bằng giữa công trình kiến trúc và môi trường, bảo đảm tính thẩm mỹ và bảo vệ hệ sinh thái.
Hai là, xây dựng tình yêu đối với tự nhiên. Nền sản xuất nông nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố tự nhiên như khí hậu, đất đai, nguồn nước…, từ đó hình thành mối quan hệ mật thiết giữa con người và môi trường. Để duy trì sản xuất và bảo đảm an ninh lương thực, người dân phải hiểu và tuân thủ các quy luật tự nhiên, qua đó phát triển ý thức tôn trọng và gắn kết với môi trường. Sự gắn kết này không chỉ phản ánh nhận thức về giá trị của thiên nhiên mà còn thể hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường sống. Truyền thống canh tác bền vững của người dân Việt Nam nhấn mạnh việc bảo vệ đất đai, rừng và cân bằng sinh thái, nhận thức rõ rằng khai thác không hợp lý có thể dẫn đến thiên tai nghiêm trọng. Văn hóa ứng xử với tự nhiên mang tính đạo đức đã góp phần duy trì hệ giá trị nông nghiệp, thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
Ba là, xây dựng văn hóa hành động trong sản xuất vật chất. Lao động sản xuất vật chất giữ vai trò then chốt trong phát triển bền vững và duy trì sự hài hòa giữa con người và tự nhiên. Việc khai thác tài nguyên phải đi đôi với bảo tồn, tái tạo, tuân theo quy luật tự nhiên nhằm tránh tổn hại hệ sinh thái. Các hoạt động như bảo vệ đa dạng sinh học và cải thiện độ phì nhiêu của đất đã trở thành chuẩn mực đạo đức. Ngày nay, việc ứng dụng công nghệ sạch, giảm thiểu chất thải và khí thải là yêu cầu thiết yếu để bảo đảm phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường. Các lĩnh vực sản xuất kinh doanh cần tuân thủ nguyên tắc hài hòa với tự nhiên, bảo tồn cảnh quan và hệ sinh thái.
Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, song vấn đề xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở nước ta đến nay vẫn còn nhiều hạn chế. Đại hội XII của Đảng nhận định: “tài nguyên chưa được quản lý, khai thác sử dụng có hiệu quả và bền vững; một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt. Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng; việc khắc phục hậu quả về môi trường do chiến tranh để lại còn chậm. Đa dạng sinh học suy giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, sức khỏe và đời sống nhân dân”(14). Cụ thể:
Thứ nhất, trình độ hiểu biết về các quy luật tự nhiên của một bộ phận dân cư vẫn còn hạn chế, dẫn đến nhận thức phiến diện về mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, một số người vẫn tin rằng có thể cải tạo tự nhiên theo ý muốn mà không tính đến hậu quả, điều này dẫn đến việc tuyệt đối hóa vai trò của con người, không tuân thủ các quy luật khách quan của tự nhiên, gây ra những tác động tiêu cực nghiêm trọng đến môi trường và hệ sinh thái. Nhiều hành vi vô ý thức của con người đã phá vỡ sự cân bằng của tự nhiên, gây tổn hại lớn đến môi trường.
Thứ hai, chưa nhận thức được tầm quan trọng của môi trường tự nhiên với cuộc sống. Con người chỉ có thể tồn tại khi được môi trường tự nhiên cung cấp các yếu tố cơ bản như đất, nước, không khí. Tuy nhiên, nhiều người chưa nhận thức đầy đủ về giới hạn của các nguồn tài nguyên này. Do đó, một bộ phận dân cư vẫn coi đây là những nguồn tài nguyên vô tận. Quan niệm này dẫn đến việc sử dụng lãng phí và làm ô nhiễm môi trường. “Chính quyền ở nhiều địa phương chưa quan tâm đúng mức, chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm về quản lý chất thải theo quy định. Nhận thức của người dân trong thu gom, phân loại chất thải còn nhiều hạn chế… Ý thức của một số doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý chất thải rác sinh hoạt còn hạn chế, gây ô nhiễm môi trường trong quá trình vận chuyển, xử lý”(15). Vấn đề ô nhiễm đất đai đang ngày càng trở nên nghiêm trọng, với sự suy giảm cả về số lượng lẫn chất lượng. Nguyên nhân do con người khai thác đất vượt quá khả năng tự tái tạo và làm suy kiệt các chất dinh dưỡng trong đất.
Thứ ba, nguyên tắc cân bằng và hài hòa giữa con người và tự nhiên bị phá vỡ trong quá trình đô thị hóa, mặc dù sự phát triển này thể hiện bước tiến về kinh tế - xã hội của một quốc gia. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội những năm qua đã bộc lộ nhiều hạn chế trong văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên. Chẳng hạn, trong ngành xây dựng, theo nguyên tắc việc xây dựng các công trình phải bảo đảm tính hài hòa với môi trường tự nhiên và sức khỏe con người cũng như yếu tố thẩm mỹ, đồng thời kết hợp với cảnh quan. Tuy nhiên, vì mục tiêu lợi nhuận, tiết kiệm chi phí, nhiều khu đô thị hiện nay thiếu không gian cây xanh, hồ nước và khu vui chơi công cộng, tạo sự “bê tông hóa” môi trường sống, làm cho con người khó hòa nhập với thiên nhiên.
2.3. Giải pháp xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường. Nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật được ban hành để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Đại hội XIII của Đảng khẳng định quan điểm: “lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”(16). Đồng thời, “Xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu; dự báo, cảnh báo thiên tai, ô nhiễm và thảm họa môi trường, dịch bệnh. Có kế hoạch khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của nhân dân”(17).
Để hiện thực hóa những quan điểm nêu trên của Đảng, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho các chủ thể. Cung cấp kiến thức về các vấn đề môi trường hướng đến thay đổi thái độ và hành vi của con người đối với thiên nhiên, thông qua các hình thức tuyên truyền đa dạng như truyền thông đại chúng, giáo dục trong trường học và các hoạt động cộng đồng. Việc nhấn mạnh mối liên hệ giữa sức khỏe con người và chất lượng môi trường tự nhiên có thể tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành vi của các chủ thể. Các chiến dịch tuyên truyền cần được thiết kế phù hợp với đặc điểm văn hóa, kinh tế và xã hội ở từng địa phương nhằm bảo đảm tính khả thi và bền vững trong thực tiễn. Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý, cộng đồng dân cư là yếu tố then chốt để xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên.
Hai là, phát huy vai trò của hệ thống chính trị các cấp. Các cơ quan chính quyền từ trung ương đến địa phương cần tăng cường năng lực quản lý, đề ra các chính sách và biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng. Hệ thống chính trị có vai trò chủ đạo trong việc xây dựng và thực thi khung pháp lý, ban hành các quy định bảo vệ môi trường, đồng thời giám sát và xử lý vi phạm. Sự phối hợp giữa các cấp chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội trong tạo dựng mạng lưới bảo vệ môi trường sẽ thúc đẩy việc hình thành và củng cố thói quen, hành vi ứng xử có trách nhiệm với môi trường trong toàn xã hội.
Ba là, bồi dưỡng tình yêu với môi trường tự nhiên và tư tưởng “sống hòa hợp với tự nhiên” trong nhân dân. Tình yêu với môi trường xuất phát từ kiến thức và sự hiểu biết về tầm quan trọng của tự nhiên và tự nguyện gắn kết tinh thần với nó. Để nuôi dưỡng tình yêu này, cần tăng cường giáo dục và truyền thông có tính trải nghiệm, giúp người dân hiểu rõ giá trị tài nguyên và sự tương tác với môi trường. Các hoạt động như trồng cây, làm sạch môi trường, bảo tồn thiên nhiên vừa nâng cao nhận thức, vừa tạo mối quan hệ cá nhân với thiên nhiên. Việc lồng ghép giá trị văn hóa và truyền thống yêu thiên nhiên trong giáo dục cộng đồng sẽ thúc đẩy trách nhiệm của người dân về bảo vệ môi trường.
Tư tưởng “sống hòa hợp với tự nhiên” nhấn mạnh mối quan hệ tương hỗ giữa con người và thiên nhiên, yêu cầu con người vừa khai thác, vừa bảo vệ hệ sinh thái. Để phát triển tư tưởng này, cần giáo dục từ trường học đến cộng đồng về sự phụ thuộc của con người vào môi trường. Các chiến dịch tuyên truyền nên tập trung nâng cao nhận thức về chống khai thác tài nguyên quá mức và khuyến khích lối sống tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ đa dạng sinh học.
Bốn là, nâng cao ý thức và tăng cường hành động bảo vệ môi trường tự nhiên: Bắt đầu từ giáo dục và truyền thông, giúp cộng đồng hiểu rõ tầm quan trọng của môi trường. Lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường vào các cấp học và tổ chức hoạt động ngoại khóa như trồng cây, dọn dẹp và bảo tồn tài nguyên. Đồng thời, thúc đẩy các chính sách như giảm thiểu nhựa, phân loại rác thải và sử dụng năng lượng tái tạo để chuyển nhận thức thành hành động. Sự phối hợp giữa giáo dục, chính sách và cộng đồng là yếu tố then chốt để bảo vệ môi trường bền vững.
3. Kết luận
Từ góc nhìn của triết học Mác - Lênin về văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, chúng ta nhận thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ở Việt Nam hiện nay là vô cùng cần thiết và cấp bách. Đây không chỉ là nhiệm vụ của một cá nhân mà là trách nhiệm của toàn xã hội. Việc xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên không chỉ giúp bảo vệ môi trường tự nhiên hiện tại mà còn để lại nguồn tài nguyên cho thế hệ mai sau, đồng thời phản ánh được tư duy tiến bộ của một xã hội phát triển bền vững.
_________________
Ngày nhận bài: 24-02-2025; Ngày bình duyệt: 12-4-2025; Ngày duyệt đăng: 05-5-2025.
Email tác giả: hunglt@ueh.edu.vn.
(1), (16), (17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.214, 117, 154.
(2), (3), (4), (8), (13) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr.654, 655, 655, 720, 655.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Sđd, tr.44.
(6), (10) Trần Lê Bảo: Văn hóa sinh thái - nhân văn (Giáo dục môi trường), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2005, tr.36, 37.
(7), (9), (12) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.42, Sđd, tr.135, 137, 170.
(11) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.32, Sđd, tr.80.
(14) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.140.
(15) Bộ Tài nguyên và Môi trường: Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2019, Chuyên đề Quản lý chất thải rắn trong sinh hoạt, Nhà xuất bản Dân trí, Hà Nội, 2020, tr.48.