(LLCT) - Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, công tác đối ngoại đóng vai trò quan trọng, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần khẳng định vị thế quốc gia, vừa trực tiếp góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại “vừa hồng, vừa chuyên” - vững vàng về chính trị tư tưởng, đồng thời tinh thông nghiệp vụ, luật pháp quốc tế, đa văn hóa, đa ngôn ngữ - chính là nhân tố quan trọng bảo vệ chủ quyền, độc lập, đồng thời truyền tải những quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng. Bài viết phân tích vai trò của công tác đối ngoại trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong bối cảnh mới.
TS NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN
Vụ Hợp tác quốc tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Mở đầu
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực đang có nhiều biến động nhanh chóng, khó lường, công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta ngày càng mở rộng về quy mô, phạm vi và mức độ hội nhập. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại “vừa hồng, vừa chuyên” trở thành yêu cầu cấp thiết, không chỉ phục vụ hoạt động đối ngoại thường xuyên mà còn góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây cũng là nội dung cụ thể hóa quan điểm của Đại hội XIII về xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong giai đoạn mới, vì cán bộ làm công tác đối ngoại chính là cầu nối đưa chủ trương, đường lối đối ngoại vào thực tiễn và góp phần hiện thực hóa mục tiêu đối ngoại quốc gia.
Khái niệm “vừa hồng, vừa chuyên” đối với đội ngũ cán bộ nói chung, và cán bộ đối ngoại nói riêng, có nghĩa là cán bộ phải có cả đạo đức cách mạng và năng lực chuyên môn, trong đó: “Hồng” là có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với lý tưởng cách mạng và con đường xã hội chủ nghĩa, đồng thời tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Để đạt được điều này, cán bộ cần trung thành với nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới, có đạo đức cách mạng và có trách nhiệm bảo vệ, phát triển nền tảng đó. “Chuyên” có kiến thức, kỹ năng, năng lực chuyên môn cao - trong trường hợp này là ngoại giao, đối ngoại (bao gồm: hiểu biết quốc tế, ngoại ngữ, phân tích tình hình, truyền thông đối ngoại, hợp tác quốc tế, kỹ năng đàm phán, xử lý tình huống đa chiều…), đồng thời có khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn công tác đối ngoại trong bối cảnh mới. Khi kết hợp hai yếu tố này, đội ngũ cán bộ đối ngoại “vừa hồng, vừa chuyên” là vừa có bản lĩnh chính trị, vừa có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, nắm vững đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, vừa có năng lực hành động hiệu quả trong thực tiễn quốc tế đa dạng, phức tạp.
2. Nội dung
2.1. Vai trò của công tác đối ngoại trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Cục diện thế giới đang biến đổi nhanh chóng, phức tạp, nổi bật là các xu thế toàn cầu hóa, chuyển đổi số, cạnh tranh chiến lược, sự chuyển dịch địa chính trị và sự xuất hiện ngày càng nhiều các thách thức an ninh phi truyền thống. Là quốc gia hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 195 quốc gia, trong đó thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 13 nước bao gồm các nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và nhiều đối tác toàn diện là các nước lớn khác, qua đó khẳng định vị thế quốc tế ngày càng cao của mình. Việc hội nhập quốc tế sâu rộng, kết hợp với sự chủ động trong quan hệ ngoại giao, đã giúp Việt Nam nâng cao vị thế, tạo môi trường ổn định để phát triển. Trong bối cảnh đó, nước ta có nhiều cơ hội phát triển, đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó có những thách thức trên mặt trận đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các thế lực thù địch, phản động đang lợi dụng không gian mạng, truyền thông quốc tế để tuyên truyền những quan điểm sai trái, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa mà nước ta đã lựa chọn(1). Do đó, công tác đối ngoại không chỉ là mở rộng ngoại giao đa phương, hợp tác toàn diện, hội nhập kinh tế mà còn là một mặt trận tư tưởng - chính trị quan trọng để bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc, là nhân tố bảo đảm sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là nhiệm vụ sống còn của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gắn chặt với mục tiêu giữ vững độc lập, tự chủ, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại không chỉ là bảo vệ quan điểm, đường lối chính trị của Đảng, mà còn là bảo vệ hình ảnh, uy tín và niềm tin quốc tế đối với con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong các văn kiện của Đảng, công tác đối ngoại được luôn xác định là một nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đại hội XIII của Đảng chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”(2). Lực lượng cán bộ thực hiện công tác đối ngoại - gồm cán bộ ngoại giao nhà nước, cán bộ đối ngoại đảng, cán bộ đối ngoại nhân dân - giữ vai trò nòng cốt trong việc hiện thực hóa đường lối đối ngoại của Đảng, đồng thời đóng góp vào việc bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng. Thông qua hoạt động đối ngoại, chúng ta khẳng định được giá trị và sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Việt Nam trên trường quốc tế, qua đó củng cố niềm tin trong nước và truyền tải thông điệp rõ ràng với cộng đồng quốc tế(3). Cán bộ đối ngoại là người trực tiếp tham gia xử lý tình huống quốc tế, đàm phán, truyền thông đối ngoại, quảng bá hình ảnh quốc gia - do đó nếu không đủ bản lĩnh chính trị, chuyên môn, hiểu biết sâu sắc thì khả năng bị động, thậm chí bị tác động từ bên ngoài là rất lớn.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ này, đội ngũ cán bộ đối ngoại cần có năng lực tư duy chiến lược, khả năng dự báo và bản lĩnh chính trị vững vàng để xử lý linh hoạt, khéo léo các mối quan hệ đối tác, đối tượng trong môi trường quốc tế đa chiều, phức tạp. Cán bộ đối ngoại không chỉ thực thi chính sách mà còn là người kiến tạo hình ảnh quốc gia và người bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên trường quốc tế. Đội ngũ này góp phần định hình diễn ngôn quốc tế về Việt Nam, thông qua các diễn đàn như Liên hợp quốc, ASEM, COP28, Hội đồng Nhân quyền. Đồng thời, là lực lượng nòng cốt phản bác thông tin sai trái, xuyên tạc, đặc biệt trong các vấn đề về “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân chủ”; là người lan tỏa hệ giá trị Việt Nam, thể hiện bản lĩnh chính trị, đạo đức, trí tuệ và văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh.
Đại hội XIII của Đảng xác định: “phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ “then chốt” của công tác xây dựng Đảng, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh của chế độ; cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu thật sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng và nhân dân”(4). Do đó, trong lĩnh vực đối ngoại, việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành ngoại giao, mà là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, gắn với yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong công tác đối ngoại. Yêu cầu đối với cán bộ đối ngoại “vừa hồng, vừa chuyên” không chỉ là tiêu chí rèn luyện đạo đức cách mạng mà còn là điều kiện quyết định hiệu quả công tác. “Hồng” thể hiện bản lĩnh chính trị, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; “chuyên” phản ánh trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và kỹ năng nghề nghiệp. Hai yếu tố này gắn bó hữu cơ, bổ sung cho nhau, bảo đảm để cán bộ đối ngoại có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
2.2. Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại Việt Nam hiện nay
Về thành tựu
Thành tựu nổi bật trước hết thể hiện ở quy mô, cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại ngày càng được nâng cao. Đa số cán bộ được đào tạo bài bản, có bản lĩnh chính trị vững vàng, chuyên môn sâu, ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu hội nhập quốc tế toàn diện. Đáng chú ý, đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực nghiên cứu, phân tích và dự báo chiến lược đã trưởng thành nhanh chóng, trở thành nhân tố mới trong quá trình hiện đại hóa nền ngoại giao Việt Nam.
Thành tựu cũng thể hiện rõ qua hiệu quả hoạt động đối ngoại của Việt Nam trên trường quốc tế. Những năm gần đây, Việt Nam đã đảm nhiệm xuất sắc vai trò tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025, tham gia tích cực tại Hội nghị COP28 (Dubai, 2023), ký kết và nâng cấp nhiều quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đặc biệt là Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ (năm 2023), Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới Việt Nam - Nhật Bản (năm 2023), đồng thời duy trì quan hệ ổn định, tin cậy với Trung Quốc, Hàn Quốc và các nước láng giềng. Các kết quả này phản ánh năng lực tham mưu chiến lược, khả năng tổ chức, đàm phán và ứng xử ngoại giao ngày càng chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ đối ngoại Việt Nam.
Bên cạnh đó, công tác đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai đồng bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao toàn diện. Đối ngoại đảng tiếp tục mở rộng mạng lưới hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và các chính đảng tiến bộ trên thế giới, củng cố niềm tin chính trị và mở rộng không gian đối thoại tư tưởng. Ngoại giao nhà nước đạt nhiều thành tựu về kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, và khoa học - công nghệ thông qua hàng chục hiệp định hợp tác được ký kết và thực thi hiệu quả. Đối ngoại nhân dân ngày càng thể hiện vai trò cầu nối, lan tỏa giá trị văn hóa, hòa bình và hữu nghị, qua hàng nghìn chương trình giao lưu và hợp tác quốc tế.
Từ những kết quả đó khẳng định, đội ngũ cán bộ đối ngoại Việt Nam hiện nay đã phát triển vững chắc cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu thế hệ, thể hiện bản lĩnh chính trị kiên định, năng lực chuyên môn sâu và khả năng thích ứng cao với bối cảnh quốc tế đầy biến động. Họ là lực lượng tiên phong trong việc cụ thể hóa đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng thành các hành động, sáng kiến và kết quả cụ thể, góp phần nâng cao vị thế, uy tín và ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế. Những thành tựu đó chứng minh năng lực chuyên môn, bản lĩnh và trình độ chính trị của đội ngũ cán bộ đối ngoại Việt Nam ngày càng được củng cố. Nhiều cán bộ trẻ đã thể hiện khả năng phân tích chiến lược, dự báo và ứng phó hiệu quả với các vấn đề phức tạp trên trường quốc tế.
Về hạn chế
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, song công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập:
Bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ, đặc biệt là cán bộ trẻ, chưa thật sự vững vàng. Trong môi trường hội nhập và tác động đa chiều của thông tin, vẫn còn hiện tượng lúng túng khi tiếp cận, xử lý những vấn đề phức tạp, nhạy cảm về chính trị, đối ngoại. Khả năng phản biện, đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên mặt trận đối ngoại còn hạn chế, chủ yếu dừng ở mức phản ứng tình huống, thiếu chủ động định hướng dư luận.
Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông đối ngoại số giữa các thế hệ cán bộ chưa đồng đều. Một số đơn vị chưa tận dụng được sức mạnh của nền tảng số, mạng xã hội và dữ liệu mở trong nghiên cứu, phân tích và tham mưu chiến lược.
Cơ chế đánh giá, quy hoạch và sử dụng cán bộ còn thiếu đồng bộ, chưa hình thành hệ thống tiêu chí thống nhất để đo lường và đánh giá năng lực “hồng”, “chuyên” một cách khoa học. Nhiều tiêu chí còn mang tính định tính, khó lượng hóa, dẫn tới việc nhận diện và phát triển nhân tài trong lĩnh vực đối ngoại chưa thực sự hiệu quả.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Một số khóa học còn nặng về lý thuyết, thiếu kỹ năng thực hành; nội dung đào tạo về truyền thông chiến lược, ngoại giao số, phân tích thông tin mở… còn mờ nhạt.
Một bộ phận cán bộ đối ngoại ngại đổi mới, thiếu tinh thần dấn thân, sợ va chạm, thiếu sáng tạo trong xử lý các tình huống quốc tế phức tạp. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả công tác, mà còn hạn chế khả năng truyền cảm hứng và dẫn dắt đội ngũ kế cận.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do: cơ chế quản lý chưa hoàn thiện; công tác đánh giá chưa sát thực tế; nội dung đào tạo chưa theo kịp xu thế toàn cầu hóa; và đặc biệt, yêu cầu của chuyển đổi số trong lĩnh vực ngoại giao đòi hỏi chuẩn năng lực mới mà hệ thống hiện nay chưa kịp thích ứng.
2.3. Một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh hội nhập quốc tế và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Từ thực trạng trên có thể thấy, đội ngũ cán bộ đối ngoại Việt Nam đã phát triển vững chắc về lượng và chất, song vẫn còn khoảng cách nhất định giữa yêu cầu của thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng. Việc khắc phục những hạn chế này là yêu cầu cấp bách, nhằm đáp ứng mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại “vừa hồng, vừa chuyên”, đủ năng lực và tầm vóc để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới. Theo đó, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ nhận thức, tư duy và phương thức lãnh đạo về công tác cán bộ đối ngoại: Các cấp ủy cần nhận thức sâu sắc rằng, việc xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại “vừa hồng, vừa chuyên” là nhiệm vụ chiến lược, gắn với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong hội nhập quốc tế. Cần tiếp tục quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24-1-2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới và các văn kiện mới của Đảng về công tác cán bộ, đây là kim chỉ nam cho quá trình quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ đối ngoại.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế, cơ chế đánh giá và sử dụng cán bộ theo hướng hiện đại, minh bạch và định lượng hóa: Sớm ban hành “Khung năng lực vị trí việc làm” đối với cán bộ đối ngoại, trong đó lượng hóa các tiêu chí về phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, năng lực số và kỹ năng truyền thông quốc tế. Cần áp dụng mô hình đánh giá đa chiều (360o), kết hợp giữa đánh giá nội bộ và phản hồi từ các đối tác quốc tế, nhằm phản ánh trung thực hơn hiệu quả công tác của từng cá nhân. Hoàn thiện cơ chế phối hợp liên ngành vì công tác đối ngoại bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành ngoại giao mà là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành, địa phương - cần tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin, thống nhất nhận thức.
Thứ ba, xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, hiện đại, trang bị phương tiện hiện đại, dữ liệu quốc tế, phân tích dự báo, truyền thông đa phương tiện… để cán bộ có thể phát huy tối đa năng lực chuyên môn. Tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện để cán bộ đối ngoại rèn luyện, cống hiến; có nơi làm việc ở nước ngoài, có chương trình luân chuyển, có chế độ hỗ trợ khi công tác ở vùng ngoại biên hoặc nước ngoài, tạo điều kiện để giữ chân nhân tài. Ngành ngoại giao cần xây dựng nền tảng học tập và quản trị cán bộ trực tuyến (e-Diplomacy Platform), tích hợp dữ liệu đào tạo, đánh giá và tự học suốt đời của từng cán bộ. Đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo, big data, và hệ thống phân tích dự báo chính sách phục vụ công tác tham mưu đối ngoại.
Thứ tư, tăng cường đào tạo về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ ngành đối ngoại. Cán bộ đối ngoại cần được bồi dưỡng những nội dung cốt lõi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại của Đảng; nhận thức rõ mối quan hệ giữa đối ngoại và bảo vệ nền tảng tư tưởng. Đào tạo chuyên môn đối ngoại và ngoại giao, tăng cường đào tạo về ngoại ngữ, kiến thức quốc tế, luật pháp quốc tế, ngoại giao kinh tế, truyền thông quốc tế, kỹ năng đàm phán, xử lý khủng hoảng đối ngoại. Bồi dưỡng kỹ năng thông tin đối ngoại, truyền thông số trong bối cảnh mạng xã hội phát triển để cán bộ có khả năng vận dụng công nghệ, truyền thông đa phương tiện, kịp thời nhận diện và phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc. Đào tạo thực tiễn và trao đổi quốc tế: Tạo điều kiện cho cán bộ tham gia thực tiễn quốc tế, giao lưu, hợp tác, từ đó nâng cao kiến thức thực tế - có thể tổ chức chương trình trao đổi, cử cán bộ đi thực tế ở nước ngoài, tham gia các diễn đàn đa phương. Xây dựng chương trình đào tạo liên ngành: Vì đối ngoại gắn với kinh tế, khoa học - công nghệ, văn hóa, an ninh…, nên đào tạo cán bộ đối ngoại cần mang tính liên ngành, không chỉ chuyên về ngoại giao mà còn hiểu biết rộng về các lĩnh vực then chốt của kinh tế - xã hội.
Thứ năm, tăng cường truyền thông chiến lược và lan tỏa giá trị Việt Nam trên trường quốc tế: Cán bộ đối ngoại cần được trang bị kỹ năng truyền thông hiện đại, có khả năng chủ động dẫn dắt thông tin, định hướng dư luận quốc tế và lan tỏa bản sắc ngoại giao Hồ Chí Minh trong thời đại số. Đồng thời, tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Ngoại giao, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, các cơ quan báo chí thông tin đối ngoại… nhằm thống nhất thông điệp, bảo đảm tính chủ động và kịp thời trong định hướng truyền thông quốc gia. Chủ động tham gia và dẫn dắt các diễn đàn quốc tế: Cán bộ đối ngoại giỏi và bản lĩnh sẽ giúp Việt Nam đề xuất sáng kiến, tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế, nâng cao vị thế quốc gia - điều này cũng góp phần bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng. Khơi dậy tinh thần tiên phong, mẫu mực: Cán bộ đối ngoại xuất sắc sẽ trở thành “hình mẫu” cho thế hệ sau; từ đó lan tỏa tinh thần “vừa hồng, vừa chuyên”, khơi dậy niềm tự hào, tinh thần phụng sự Tổ quốc của đội ngũ này.
Thứ sáu, xây dựng môi trường văn hóa đối ngoại nhân văn, đoàn kết, khích lệ sáng tạo và phát triển tài năng trẻ: Mỗi cơ quan, đơn vị cần tạo điều kiện để cán bộ thể hiện năng lực, khuyến khích tư duy phản biện tích cực và tinh thần đổi mới sáng tạo. Coi trọng công tác nêu gương, nhân rộng điển hình tiên tiến, qua đó hình thành hệ giá trị văn hóa chính trị đặc trưng của người cán bộ đối ngoại Việt Nam thời kỳ mới - “Trung thành, bản lĩnh, trí tuệ, nhân văn và sáng tạo”.
Thứ bảy, quán triệt chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập ngành Ngoại giao (28/8/1945-28/8/2025) và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất: Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp, mang đậm bản sắc Việt Nam; toàn diện trên cả ba trụ cột: Đối ngoại đảng - ngoại giao nhà nước - đối ngoại nhân dân; kết hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa và thông tin đối ngoại; hiện đại về tư duy, phương pháp, công cụ: Thực hiện chuyển đổi số ngoại giao, phân tích dữ liệu lớn, ngoại giao số - công dân số - truyền thông số; chuẩn hóa các quy trình, tiêu chuẩn ngoại giao. Chuyên nghiệp về con người, tổ chức, kỷ luật thực thi; văn hóa ứng xử, nghệ thuật đàm phán, kỹ năng đa phương ngang tầm khu vực và toàn cầu. Phát huy bản sắc ngoại giao Việt Nam: Kiên định về nguyên tắc, uyển chuyển về sách lược, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Không ngừng nâng cao vị thế đất nước đi đôi với tôn vinh giá trị của hòa bình, đề cao chủ nghĩa nhân văn cao cả và tích cực đóng góp có trách nhiệm đối với giá trị chung của nhân loại và cộng đồng quốc tế.
3. Kết luận
Xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại “vừa hồng, vừa chuyên” là yêu cầu khách quan, mang tính chiến lược lâu dài, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Đội ngũ này không chỉ là người đại diện cho hình ảnh quốc gia, mà còn là “chiến sĩ tiên phong” trên mặt trận tư tưởng, lý luận và văn hóa đối ngoại.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đối ngoại cần được đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đồng thời gắn chặt với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực đối ngoại - một trong những “trụ cột mềm” của sức mạnh quốc gia hiện đại.
Trong kỷ nguyên phát triển mới, đội ngũ cán bộ đối ngoại Việt Nam cần tiếp tục khẳng định bản lĩnh chính trị, trí tuệ và đạo đức cách mạng, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa.
_________________
Ngày nhận bài: 28-10-2025; Ngày bình duyệt: 4-11-2025; Ngày duyệt đăng: 12-11-2025.
Email tác giả: nvanpvhn@gmail.com
(1) Nguyễn Bình Ban: “Một số bài học về đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, https://dhannd.bocongan.gov.vn.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.117 - 118.
(3) Đặng Đình Tiến: “Công tác đối ngoại góp phần bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới”, https://www.quanlynhanuoc.vn, đăng ngày 8-7-2025.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Sđd, tr.226.