(LLCT) - Tự chủ chiến lược là một xu thế trong quan hệ quốc tế trong bối cảnh có nhiều nguy cơ đối với an ninh, chủ quyền quốc gia như hiện nay. Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia, đặc biệt là những cường quốc tầm trung như Ôxtrâylia đã lựa chọn việc thực hiện tự chủ trên nhiều lĩnh vực, trong đó có vấn đề đối ngoại. Soi chiếu các quan hệ của Ôxtrâylia với Mỹ và Trung Quốc, các quốc gia tầm trung khác, các thể chế đa phương, các quốc gia vừa và nhỏ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, bài viết phân tích chính sách ngoại giao của Ôxtrâylia những năm gần đây dựa trên góc nhìn về tự chủ chiến lược. Từ đó, nêu một số hàm ý chính sách cho Việt Nam trong việc bảo đảm độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.
TS TRẦN NGỌC DŨNG
Viện Chính trị và Quan hệ quốc tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Mở đầu
Cục diện thế giới hiện nay đang biến đổi với sự gia tăng cạnh tranh, xung đột giữa các quốc gia, nhóm dân tộc, sắc tộc khác nhau. Cùng với đó, là cạnh tranh ảnh hưởng trên quy mô toàn cầu về kinh tế, khoa học kỹ thuật. Bối cảnh đó đặt ra nhiều thách thức cho các quốc gia, đặc biệt là việc cân bằng quyền lực nước lớn, lựa chọn đối tác phát triển. Để giữ vững chủ quyền quốc gia - dân tộc, không bị phụ thuộc vào các nước lớn, không bị cuốn vào vòng xoáy cạnh tranh quyền lực, nhiều quốc gia tầm trung đã lựa chọn tự chủ chiến lược, đề cao ngoại giao đa phương, cùng hợp tác phát triển và hướng tới mục tiêu hòa bình, thịnh vượng và tiến bộ xã hội. Ôxtrâylia là quốc gia thực hiện hiệu quả chính sách tự chủ chiến lược. Một mặt, Ôxtrâylia gắn bó chặt chẽ với Mỹ, có nhiều hành động thể hiện xu hướng “thân” Mỹ trong đối ngoại. Dẫu vậy, Ôxtrâylia vẫn có nhiều chính sách khẳng định tính tự chủ trong ngoại giao.
2. Nội dung
2.1. Một số vấn đề lý luận về tự chủ chiến lược
Đến nay vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất về tự chủ chiến lược, và có khá nhiều luận giải khác nhau về vấn đề này. Nhóm học giả châu Âu nhấn mạnh khả năng tự phòng thủ, tính độc lập trong quan hệ an ninh, quốc phòng với Mỹ, và việc nâng cao vai trò của Liên minh châu Âu trong duy trì trật tự thế giới và chủ nghĩa đa phương(1). Các nhà nghiên cứu Ấn Độ cho rằng tự chủ chiến lược biểu thị khả năng của một quốc gia trong việc theo đuổi mục tiêu và lợi ích quốc gia, cùng việc áp dụng chính sách đối ngoại mà không bị hạn chế dưới bất cứ hình thức nào bởi các quốc gia khác(2).
Monreau cho rằng, tự chủ chiến lược là kết quả của tập hợp các chiến lược trong thời gian dài để tối đa hóa các ưu tiên của một chủ thể độc lập trong môi trường an ninh hay hệ thống quốc tế(3).
Bento đã tóm lược nội hàm tự chủ chiến lược là cách chủ thể lựa chọn, thích nghi và áp dụng, theo đuổi những mục tiêu có thể đạt được trong khoảng thời gian phù hợp dựa trên khả năng sẵn có và tính hiệu quả của chiến lược trong từng hoàn cảnh(4). Vũ Lê Thái Hoàng chỉ ra rằng có 5 cấp độ khác nhau của việc thực hiện tự chủ chiến lược, gồm: không tự chủ, tự chủ tượng trưng, tự chủ hữu hạn, tự chủ mạnh và tự chủ chiến lược(5).
Trong đó, mục tiêu của tự chủ chiến lược là bảo đảm, phát huy cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Nội hàm tự chủ chiến lược là độc lập, tự chủ trong bảo vệ các mục tiêu, lợi ích quốc gia; kết hợp sức mạnh nội lực và ngoại lực để triển khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế(6). Tự chủ chiến lược (cấp độ cao nhất) gắn với việc độc lập trong ra quyết sách, có khả năng cân bằng quyền lực nước lớn, trung lập trong cạnh tranh, có khả năng đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế. Tự chủ chiến lược không có nghĩa là tự cô lập, đóng cửa, không hội nhập với các quốc gia khác để bảo vệ chủ quyền quốc gia - dân tộc. Các quốc gia vừa cần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, vừa cần xử lý các mối quan hệ quốc tế một cách khéo léo. Với các quốc gia vừa và nhỏ, ngoại giao đa phương trở thành một phương cách hữu hiệu để có thêm bạn bè, đối tác và những cơ chế bảo vệ quốc gia từ sớm, từ xa.
2.2. Chính sách ngoại giao của Ôxtrâylia hiện nay
Xử lý cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc
Theo một số nhận định của học giả Trung Quốc, một trong những vấn đề Ôxtrâylia cần giải quyết là thực hiện nền đối ngoại “tự chủ” trong ứng xử với cạnh tranh chiến lược nước lớn, cụ thể là quan hệ Mỹ-Trung. Ôxtrâylia muốn nâng cao tính tự chủ và khả năng phục hồi trong thế đối trọng với đà trỗi dậy của Trung Quốc. Đồng thời, Ôxtrâylia lo lắng sự thiếu ổn định trong duy trì quan hệ đồng minh với Mỹ(7), nhất là trong bối cảnh Tổng thống D. Trump có nhiều chính sách gây áp lực với cả đồng minh. Ôxtrâylia phải cẩn trọng khi cả Mỹ và Trung Quốc đều là những đối tác quan trọng về quân sự và kinh tế.
Một số nghiên cứu cho rằng chính sách đối ngoại của Ôxtrâylia hiện nay là phòng ngừa rủi ro, tránh chọn bên. Chính sách này là sự “vận động linh hoạt” để có thể cùng hợp tác với các cường quốc vì lợi ích quốc gia(8). Ôxtrâylia coi Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở (FOIP) của Mỹ là một quy chuẩn nhưng khá hạn chế trong việc tham gia các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) để dẫn đến gia tăng căng thẳng với Trung Quốc(9). Phản ứng của Ôxtrâylia trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, và cạnh tranh Mỹ - Trung hướng đến những đặc điểm thực tế về tính cân bằng và liên minh, tức là vẫn tìm kiếm khả năng tự chủ trong bối cảnh duy trì đồng minh với Mỹ(10).
Ôxtrâylia nhận thức rõ tác động tiêu cực từ sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhất là đối với an ninh và vị thế của Ôxtrâylia. Sách trắng quốc phòng Ôxtrâylia 2009 lo lắng về quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc(11). Các chính quyền của Thủ tướng Tony Abbott (2013-2015), Malcolm Turnbull (2015-2018) và Scott Morrison (2018-2022) dường như dựa nhiều hơn vào quan hệ ngoại giao đồng minh với Mỹ. Ôxtrâylia đã lên tiếng phản đối những hành động của Trung Quốc ở các vùng biển Đông Nam Á, Đông Á; loại nhiều công ty Trung Quốc khỏi việc xây dựng hệ thống mạng 5G, yêu cầu điều tra nguyên nhân đại dịch Covid-19 từ Vũ Hán, gây căng thẳng thương mại với Trung Quốc. Chiến lược giai đoạn 2013-2030 nêu hai nguyên tắc then chốt là: sự phát triển và triển khai thực tế ảnh hưởng của Ôxtrâylia trong khu vực, và vai trò trung tâm của liên minh Ôxtrâylia - Mỹ(12). Năm 2019, Ôxtrâylia và Mỹ tổ chức Đối thoại chính sách chiến lược (SPD) để tăng cường hợp tác, giải quyết các thách thức chiến lược, bao gồm việc răn đe, kiểm soát vũ khí, không phổ biến vũ khí hạt nhân trong khu vực. Đàm phán chiến lược và chính sách quốc phòng (DPST) được tổ chức để giải quyết những thách thức chung, thúc đẩy liên kết chiến lược. Năm 2020, Tuyên bố nguyên tắc về các ưu tiên hợp tác quốc phòng và vị thế lực lượng của liên minh Ôxtrâylia - Mỹ trong khu vực được đưa ra.
Tuy vậy, Ôxtrâylia có những điểm riêng và độc lập nhất định trong quan hệ với Mỹ. Sách trắng ngoại giao và thương mại 2003 khẳng định: “Ôxtrâylia có nhiều điểm chung với Mỹ, nhưng mỗi quốc gia đều có lợi ích và ưu tiên riêng. Chúng tôi không đồng ý về một số vấn đề an ninh, bao gồm cả sự cần thiết phải có cam kết của Mỹ trong việc thực hiện Hiệp ước cấm thử nghiệm hạt nhân toàn diện và tăng cường Công ước vũ khí sinh học…Chính phủ sẽ tiếp tục bảo vệ lợi ích quốc gia khi quan điểm của chúng ta khác với quan điểm của Mỹ”(13).
Chính phủ Ôxtrâylia cũng tìm cách kết nối với Trung Quốc để bảo đảm sự cân bằng quyền lực trong khu vực. Sách trắng 2012 nhận định châu Á - Thái Bình Dương là một khu vực kinh tế năng động với Trung Quốc là trung tâm. Ôxtrâylia đã thiết lập FTA với Trung Quốc năm 2014, tham gia Ngân hàng đầu tư hạ tầng châu Á (AIIB) năm 2015, ký biên bản ghi nhớ về hợp tác trong BRI năm 2017. Gần đây, Thủ tướng Anthony Albanese chủ động hơn rất nhiều trong việc “cân bằng, ổn định” quan hệ với Trung Quốc và tăng cường hợp tác với các đối tác khác ngoài Mỹ(14). Năm 2022, Ôxtrâylia tuyên bố không ủng hộ Đài Loan tham gia CPTPP. Cả Ôxtrâylia và Trung Quốc đều phát đi những thông điệp ngoại giao khá mềm mỏng về việc có thể gặp gỡ nhằm trao đổi, giải quyết những khúc mắc liên quan đến thương mại song phương(15). Bộ trưởng Quốc phòng Richard Marles tuyên bố rằng Ôxtrâylia sẽ ổn định quan hệ với Trung Quốc mà không ảnh hưởng đến lợi ích và chủ quyền quốc gia(16). Tháng 7-2022, Ngoại trưởng Ôxtrâylia Penny Wong gặp Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị bên lề hội nghị G20 tại Inđônêxia. Tháng 11-2022, Thủ tướng Albanese và Chủ tịch Tập Cận Bình có cuộc gặp cấp cao hai nước đầu tiên từ năm 2016, cùng đồng thuận thúc đẩy sự ổn định và phát triển của quan hệ song phương. Tại Đối thoại Shangri-la 2023, Thủ tướng Albanese khẳng định Ôxtrâylia ủng hộ mạnh mẽ việc thiết lập các kênh liên lạc đáng tin cậy và cởi mở giữa Mỹ và Trung Quốc và kêu gọi các bên duy trì ổn định mối quan hệ hợp tác cùng có lợi. Tháng 11-2023, Thủ tướng Albanese đã có chuyến thăm chính thức Trung Quốc nhân dịp 50 năm chuyến thăm đầu tiên của Thủ tướng Ôxtrâylia đến Trung Quốc năm 1973, cũng là chuyến thăm đầu tiên trong vòng 7 năm (từ năm 2016). Đây là động thái quan trọng để xoa dịu quan hệ song phương Ôxtrâylia - Trung Quốc(17). Điều đó cho thấy tham vọng của Ôxtrâylia trong tự chủ chính sách ngoại giao, duy trì quan hệ cân bằng với cả Mỹ và Trung Quốc.
Tham gia nhiều cơ chế đa phương
Để bảo đảm tự chủ chiến lược, Ôxtrâylia ủng hộ mạnh mẽ các cơ chế, thể thế đa phương trong việc xây dựng một khu vực ổn định, thịnh vượng và hòa bình(18). Ôxtrâylia tìm cách đa phương hóa, đa dạng hóa đối tác nhằm tạo lập một hệ thống đa phương hỗ trợ lẫn nhau, dù các mối quan hệ vẫn xoay quanh Mỹ. Ôxtrâylia tham gia các nhóm như EAS, QUAD, MIKTA (gồm Mexico, Inđônêxia, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Ôxtrâylia), AUKUS.
Ôxtrâylia tham gia tái sáng lập nhóm QUAD 2.0 năm 2017 với sự hợp tác đa dạng về cơ sở hạ tầng, biến đổi khí hậu, công nghệ, không gian mạng, không gian vũ trụ; tạo cơ chế kết nối sức mạnh để nâng cao khả năng cạnh tranh với Trung Quốc(19). QUAD giúp Ôxtrâylia tiếp cận những công nghệ tiên tiến nhất, nguồn cung cấp tài nguyên quý, bảo đảm cân bằng chuỗi cung ứng, chuyển đổi năng lượng xanh nhằm phát triển bền vững. Qua QUAD, Ôxtrâylia cũng tăng cường quan hệ với Nhật Bản, Ấn Độ(20). Ôxtrâylia còn ủng hộ chủ trương mở rộng QUAD để tăng cường ngoại giao đa phương trong khu vực, tránh lệ thuộc quá nhiều vào Mỹ(21).
Ôxtrâylia tham gia vào AUKUS chặt chẽ hơn so với QUAD trong hợp tác về tàu ngầm và công nghệ quốc phòng. Gói ngân sách 368 tỷ USD được thông qua để cải tiến công nghệ hạt nhân, góp phần nâng cao năng lực chủ quyền của Ôxtrâylia, đồng thời tạo ra 20.000 công việc liên quan(22). Tháng 3-2022, Ôxtrâylia thông báo kế hoạch xây dựng căn cứ cho tàu ngầm hạt nhân Brisbane và Newcastle ở bờ biển phía Đông, và Kembla ở miền Nam Sydney(23). Tháng 9-2022, hải quân Ôxtrâylia được phép tham dự huấn luyện tại các tàu ngầm hạt nhân của Anh(24). Hợp tác công nghệ sẽ nâng cao khả năng tự chủ của công nghiệp quốc phòng của Ôxtrâylia, mở rộng sản xuất và xuất khẩu vũ khí, giảm dần nhập khẩu vũ khí từ Mỹ (đang chiếm 70%).
Ôxtrâylia cùng với Nhật Bản, Niu Dilân, Hàn Quốc cũng hợp tác với NATO, tham gia các hội nghị Bộ trưởng ngoại giao NATO vào tháng 4-2022 và 4-2023, hay hội nghị thượng đỉnh NATO tháng 7-2024. Quan hệ này được định hướng bởi Chương trình đối tác thiết kế riêng cho từng chủ thể (ITPP) giai đoạn 2023-2026 của NATO. Các bên tập trung tăng cường đối thoại và tham vấn các vấn đề hòa bình, an ninh, kiểm soát và giải trừ vũ khí, không phổ biến vũ khí hạt nhân, phòng thủ mạng, phòng thủ không gian(25).
Ôxtrâylia tích cực tham gia các cơ chế đa phương trong khu vực nhằm đa dạng hóa cách thức giải quyết các thách thức đặt ra. Các đối tác đa phương chính hầu hết là các quốc gia trong khu vực, giúp Ôxtrâylia phần nào đa phương hóa quan hệ, cùng chia sẻ, gắn kết các vấn đề về an ninh, xây dựng khu vực hòa bình, ổn định, thịnh vượng. Tuy nhiên, các cơ chế đa phương đó có quan hệ mật thiết với Mỹ, cho thấy xu hướng gần Mỹ trong chính sách đối ngoại của Ôxtrâylia.
Tăng cường quan hệ với các nước Nam Thái Bình Dương và Đông Nam Á
Một trong số chính sách ngoại giao chủ đạo của Ôxtrâylia là hợp tác với các nước Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương(26). Thúc đẩy môi trường khu vực ổn định cho lợi ích quốc gia là một trong những mục tiêu chính trong Chiến lược an ninh quốc gia(27). Thủ tướng Scott Morrison coi Nam Thái Bình Dương là mặt tiền và trung tâm trong chiến lược, và đưa ra chương trình “Pacific Step-Up”, bổ sung 3 tỷ USD để hỗ trợ phát triển và duy trì hợp tác kinh tế, an ninh với láng giềng. Ôxtrâylia đã thành lập “Nhóm huấn luyện di động Thái Bình Dương”, mở rộng hoạt động huấn luyện với 21 tàu Patrol được đưa vào sử dụng trong hợp tác với đối tác khu vực. Hợp tác cũng mở rộng tới vấn đề an ninh mạng, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh hàng hải. Ôxtrâylia cũng mở thêm 5 cơ sở ngoại giao mới ở Palau, quần đảo Marshall, Polynesia, Niue và quần đảo Cook(28).
Ngày 26-4-2022, Thủ tướng Albanese đã triển khai chính sách xây dựng “gia đình Thái Bình Dương mạnh mẽ” nhằm củng cố quan hệ đối tác với các quốc gia trong khu vực. Các hoạt động được triển khai, như: 1) trường quân sự Ôxtrâylia Thái Bình Dương hỗ trợ đối tác huấn luyện, đào tạo quốc phòng; 2) đầu tư hơn 12 triệu AUD trong năm 2024-2025 hỗ trợ an ninh hàng hải; 3) gói 525 triệu AUD trong 4 năm (2022-2026) tăng cường hỗ trợ phát triển khu vực; 4) đối tác hỗ trợ cơ sở hạ tầng khí hậu Thái Bình Dương; 5) chiến lược tuyên truyền; 6) tăng cường hoạt động thăm ngoại giao; 7) cải cách các chương trình di cư; 8) mở rộng các đề án di cư lao động; 9) cấu trúc lại lao động nông nghiệp di cư và việc làm theo mùa; và 10) thúc đẩy nhập cư lâu dài theo “Chương trình thị thực gắn kết Thái Bình Dương”(29). Mục tiêu chung của chương trình là thúc đẩy quan hệ với các quốc đảo Thái Bình Dương. Đây là động thái nhằm ổn định khu vực và tăng cường nhiều bạn bè hơn nhằm bảo đảm gắn kết và ổn định khu vực, từ đó góp phần bảo vệ an ninh quốc gia.
Ôxtrâylia coi Đông Nam Á là “trung tâm địa lý”, là một bộ phận quan trọng của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương(30). Khi Trung Quốc liên tục thực hiện các hành vi gây hấn ở biển Đông, Ôxtrâylia nhận thức việc cần “giữ vững” mục tiêu Đông Nam Á, tái khẳng định và tăng cường sức mạnh, tính kết nối trong khu vực và coi Việt Nam, Malaixia, Thái Lan, Xinhgapo là những quốc gia chiến lược để tăng cường quan hệ(31). Sau năm 2018, Ôxtrâylia tập trung xây dựng chiến lược khu vực đa phương với nhiều cấp độ khác nhau, trong đó Đông Nam Á nằm ở vòng cung giữa - “middle ring” và được coi là những đối tác ngày càng gắn bó chặt chẽ(32).
Một loạt hiệp định thương mại tự do giữa Ôxtrâylia với các quốc gia ASEAN đã được ký kết, như: ASEAN - Ôxtrâylia-New Zealand (2010), Malaysia (2013), Indonesia (2019). Sau khi CPTPP có liệu lực ở Ôxtrâylia (12/2018), quan hệ kinh tế thương mại Ôxtrâylia - ASEAN được thúc đẩy mạnh. Từ năm 2014, Ôxtrâylia cũng bắt đầu xây dựng hệ thống cấp bậc quan hệ nhằm thúc đẩy quan hệ song phương. Quan hệ đối tác chiến lược được thiết lập trước tiên với Đông Nam Á: ASEAN (2014 - đối tác chiến lược, 2021 - đối tác chiến lược toàn diện), Xinhgapo (năm 2015), Inđônêxia (năm 2018), Việt Nam (2018 - đầu 2024 là đối tác chiến lược toàn diện), Thái Lan (năm 2020), Malaixia (năm 2021). Điều đó cho thấy Ôxtrâylia ưu tiên mở rộng quan hệ với khu vực Đông Nam Á, tham vọng đa dạng hóa đối tác quan hệ, để tránh bị lệ thuộc vào bất cứ cường quốc nào, góp phần tăng cường tự chủ chiến lược trong ngoại giao.
2.3. Hàm ý chính sách với Việt Nam
Thứ nhất, phải nhìn nhận rằng nội hàm của tự chủ chiến lược (về mặt ngoại giao) dường như không khác biệt nhiều với đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam. Từ khi đổi mới đến nay, Việt Nam kiên trì mở cửa, hội nhập quốc tế, và từng bước đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các cường quốc, quốc gia tầm trung, các nước vừa và nhỏ, cùng với các tổ chức quốc tế, khu vực. Mục tiêu tối cao của đường lối đối ngoại đó là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia dân tộc, cụ thể là bảo vệ độc lập dân tộc, an ninh chủ quyền quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội và sau là nâng cao vị thế quốc gia. Bối cảnh cạnh tranh chiến lược hiện nay đòi hỏi Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa, hiệu quả hơn nữa đường lối đối ngoại. Việt Nam cần phát huy tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc” làm cơ sở để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, vừa góp phần bảo đảm ổn định, hòa bình khu vực và thế giới.
Thứ hai, tiềm lực, vị thế và góc nhìn của Ôxtrâylia và Việt Nam tuy khác nhau, nhưng thực tiễn giải quyết quan hệ Mỹ - Trung của Ôxtrâylia gợi mở cho Việt Nam những bài học quan trọng về xử lý quan hệ nước lớn. Ôxtrâylia trong một thời gian dài đã đặt Trung Quốc là “đối tượng” đấu tranh, có nhiều hoạt động đứng về phía Mỹ và đồng minh nhằm mục tiêu kiềm chế Trung Quốc. Tuy nhiên, gần đây Ôxtrâylia đã và đang tìm cách cân bằng quan hệ Mỹ - Trung Quốc. Giống như Ôxtrâylia, cả Mỹ và Trung Quốc đều vô cùng quan trọng đối với Việt Nam trong quá trình phát triển. Việc không chọn phe, không chọn bên, không đứng về phía này để chống lại phía kia là nguyên tắc của ngoại giao Việt Nam. Việt Nam kiên trì với lựa chọn này, tiếp tục tận dụng tốt quan hệ với cả Mỹ và Trung Quốc để giữ vững độc lập chủ quyền và phát triển đất nước. Trung Quốc là đối tác chiến lược toàn diện đầu tiên của Việt Nam (năm 2008), và Mỹ là cường quốc “phương Tây” đầu tiên được Việt Nam nâng cấp lên mức quan hệ đó (năm 2023). Điều đó cho thấy sự coi trọng, cân bằng quan hệ Mỹ - Trung của Việt Nam để tránh rủi ro, phát huy tốt nhất những thuận lợi trong quan hệ để phát triển đất nước.
Thứ ba, Ôxtrâylia đang thực hiện những chính sách của một cường quốc tầm trung khi tham gia vào một loạt các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế, đa dạng hóa quan hệ. Ngoại giao đa phương là xu hướng lớn của thế giới, và các quốc gia vừa và nhỏ cần tận dụng triệt để ngoại giao đa phương để phục vụ lợi ích quốc gia-dân tộc. Việt Nam đã và đang thực hiện rất tốt việc đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Việt Nam đã tham gia tích cực vào ASEAN, trở thành một trong những nhân tố chủ chốt, dẫn dắt trong khu vực. Việt Nam cũng có quan hệ với nhiều tổ chức quốc tế khác như Liên minh châu Âu; chủ động, tích cực đóng góp trong Liên hợp quốc. Về thương mại, Việt Nam là quốc gia có độ mở cao, đã ký kết gần 20 FTA, nổi bật như EVFTA, CPTPP, RCEP. Về ngoại giao, Việt Nam hiện có quan hệ với 194 quốc gia trên thế giới, trong đó có 13 Đối tác chiến lược toàn diện. Đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam có được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ bạn bè quốc tế, tránh bị phụ thuộc vào một cường quốc nào đó.
Thứ tư, Việt Nam cần đặc biệt chú trọng vai trò của ASEAN trong thúc đẩy hợp tác ngoại khối. ASEAN đã đưa ra Tầm nhìn về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (AOIP) năm 2019, khẳng định vị thế trung lập trong cạnh tranh chiến lược nước lớn. Việt Nam ủng hộ quan điểm của ASEAN, coi đây là cơ sở quan trọng để góp phần xây dựng khu vực ổn định và hòa bình. Việt Nam nhiều lần kêu gọi ASEAN tự tin, tự cường và tự chủ chiến lược trong môi trường thế giới nhiều biến động. Chỉ khi Việt Nam và ASEAN tự chủ, trung lập thì mới tạo lập được nền tảng để giữ vững độc lập, mở rộng quan hệ quốc tế.
Thứ năm, khi Ôxtrâylia coi trọng quan hệ với Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, Việt Nam cần tận dụng triệt để quan hệ với Ôxtrâylia để phát triển kinh tế - xã hội. Hơn 50 năm quan hệ Việt Nam - Ôxtrâylia đã có với những bước tiến lớn: đối tác toàn diện năm 2009, đối tác chiến lược năm 2018 và đối tác chiến lược toàn diện năm 2024. Việt Nam có thể học hỏi, tận dụng nhiều thành quả khoa học công nghệ của Ôxtrâylia trước nhu cầu đẩy mạnh kinh tế số, kinh tế xanh và phát triển bền vững. Đồng thời, Ôxtrâylia cũng là một trong những thị trường quan trọng hàng đầu của Việt Nam: năm 2022 giá trị thương mại đạt 15,7 tỷ USD, năm 2023 là 14 tỷ USD, năm 2024 khoảng 14,1 tỷ USD và phấn đấu năm 2025 lên 20 tỷ USD. Nâng cao và bảo đảm tính hiệu quả trong quan hệ với Ôxtrâylia là một trong những biện pháp để đa dạng hóa quan hệ trong cân bằng chiến lược cạnh tranh Mỹ - Trung hiện nay.
3. Kết luận
Chính sách ngoại giao của Ôxtrâylia là một trường hợp tự chủ đặc thù. Mặc dù Ôxtrâylia là một đồng minh điển hình của Mỹ, nhưng quốc gia này cũng khẳng định tính tự chủ trong bảo vệ chủ quyền quốc gia, vận hành chính sách ngoại giao. Ôxtrâylia đã tìm cho mình một đường hướng phát triển khi “cân bằng động” trong cạnh tranh Mỹ - Trung và mở rộng quan hệ với không chỉ với các cường quốc, mà còn với các quốc gia tầm trung, và các nước nhỏ trong khu vực. Vòng quan hệ đối tác được mở rộng sẽ hỗ trợ mạnh mẽ Ôxtrâylia bảo vệ chủ quyền quốc gia, duy trì ổn định khu vực, bảo đảm ảnh hưởng, vai trò trong quan hệ quốc tế. Từ nghiên cứu chính sách ngoại giao của Ôxtrâylia, Việt Nam cũng có thêm bài học quan trọng trong việc bảo đảm độc lập, tự chủ về mặt ngoại giao; xử lý khéo léo mối quan hệ với cả Mỹ và Trung Quốc; cũng như trong việc đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, tham gia chủ động, tích cực và có nhiều đóng góp trong các tổ chức quốc tế và khu vực; nhằm mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền, phát triển kinh tế và nâng cao vị thế của Việt Nam.
Ngày nhận bài: 5-3-2025; Ngày bình duyệt: 13 -3-2025; Ngày duyệt đăng: 22-6-2025.
Email tác giả: tranngocdung@gmail.com
(1) Vũ Lê Thái Hoàng (Chủ biên): Xu thế tự chủ chiến lược trên thế giới và hàm ý đối với Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 23-26.
(2), (4) Vitor Bento: Strategic autonomy and economic power: the Economy as a strategic theater, Routedge, London, 2022, p. 64.
(3) Louis - Philippe Morneau: Theory of Strategic Autonomy: U.S. Foreign Policy between 1823 and 1921, PhD Dissertation of Concordia University, Quebec, 2024, p. 19.
(4) Vitor Bento: Strategic autonomy and economic power: the Economy as a strategic theater, Routedge, London, 2022, p. 65.
(5) Vũ Lê Thái Hoàng (Chủ biên): Xu thế tự chủ chiến lược trên thế giới và hàm ý đối với Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 37-51; Vu Le Thai Hoang, Ngo Di Lan, & Nguyen Tien Thanh, “A Spectrum of Autonomy: Towards a Theoretical Framework of Strategic Autonomy”, International Journal, 2024, 79 (2), pp. 230-249, pp. 239-246.
(6) Trần Ngọc Dũng, Ngô Chí Nguyện: “Xu hướng tự chủ chiến lược trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học chính trị, 2024, 3, tr. 90-95, tr. 92.
(7) S. Xu: “Australia’s links to US hamper autonomy”, 21-3-2022, https://www.globaltimes.cn/page/202203/1256434.shtml, truy cập ngày 20-3-2025.
(8) R.L. Schweller: “Bandwagoning for profit: Bringing the revisionist state back in”, International Security, 1994, 19 (1), pp. 72-107, p. 74.
(9) J. Wallis and other authors: “A free and open Indo-Pacific: Strengths, Weaknesses, and Opportunities for Engagement”, Asia Policy, 2020, 27 (4), pp. 1-6, p. 2; B. Taylor, “Is Australia’s Indo-Pacific Strategy an Illusion?”, International Affairs, 2020, 96 (1), pp. 95-109, p. 106.
(10) C. Efstathopoulos: “Global IR and the Middle Power Concept: Exploring different paths to Agency”, Australian Journal of International Affairs, 2023, 77 (2), pp. 213-232, pp. 221-223.
(11) Department of Defence: Defending Australia in the Asia Pacific Century: Force 2030, Canberra, 2009.
(12) T. Hallen: Great Powers, National Interests, and Australian Grand Strategy, Canberra, 2016, p. 152.
(13) Australian Department of Foreign Affairs and Trade: Advancing the National Interest, Canberra, 2003, p. 86.
(14) M. Clarke, M. Sussex: “China, Australia’s national security choices and great power competition in the Indo-Pacific”, Australia-China Relations Institute, Sydney, 2022, p. 28.
(15) J. Fitzgerald: “What Price Stability? Anthony Albanese’s Australia-China Accord”, 24-10-2023, https://theasanforum.org/what-price-stability-anthony-albaneses-Australia-china-accord/, truy cập ngày 26-2-2025.
(16) Australian Government: “News Corp’s Defending Australia, Australian War Memorial”, 22-5-2023, https://www.minister.defence.gov.au/speeches/2023-05-22/news-corps-defending-Australia-Australian-war-memorial, truy cập ngày 26-2-2025.
(17) Hà Phương: “Nỗ lực sưởi ấm quan hệ Trung Quốc - Australia”, 5-11-2023, https://www.qdnd.vn/quoc-te/doi-song/no-luc-suoi-am-quan-he-trung-quoc-Australia-750038, truy cập ngày 20-2-2025.
(18) A. Albanese: “Keynote Address of Prime Minister, Australia in 20th Asia Security Summit: The Shangri-La Dialogue”, 2-6-2023, https://www.iiss.org/globalassets/media-library---content--migration/files/shangri-la-dialogue/2023/final-transcripts/keynote-address/revised/anthony-albanese-prime-minister-Australia---as-delivered_sld23.pdf, truy cập ngày 26-2-2025.
(19) D. Walton: “Australia and the Quad”, East Asian Policy, 2022, 14 (1), pp. 39-55.
(20) S. Patton: “The uses and the limits of the Quad”, 27-5-2022, https://www.afr.com/policy/foreign-affairs/the-uses-and-the-limits-of-the-quad-20220526-p5aoqy, truy cập ngày 14-3-2025.
(21) G. Abbondanza: “Whither the Indo-Pacific? Middle power strategies from Australia, South Korea and Indonesia”, International Affairs, 2022, 98 (2), pp. 403-421, p. 411.
(22) P. Gregoire, “Albanese Gifts Australian Autonomy to US, as we become frontline in war on China”, 17-3-2023, https://www.sydneycriminallawyers.com.au/blog/albanese-gifts-Australian-autonomy-to-us-as-we-become-frontline-in-war-on-china/, truy cập ngày 18-3-2025.
(23) S. Morrison: “An address by Prime Minister Scott Morrison”, ngày 4-3-2022, https://www.lowyinstitute.org/publications/address-prime-minister-scott-morrison.
(24) Australian Government Defence: “Australia welcomes submarine training opportunity from UK”, ngày 1-9-2022, https://www.minister.defence.gov.au/media-releases/2022-09-01/Australia-welcomes-submarine-training-opportunity-uk.
(25) Australia Embassy, “Relations with NATO”, https://belgium.embassy.gov.au/bsls/relnato.html, truy cập ngày 21-2-2025.
(26) P.J. Dean, S. Fruehling, A. O’Neil: “Australia and the US nuclear umbrella: from deterrence taker to deterrence maker”, Australian Journal of International Affairs, 2024, 78 (1), pp. 22-39, pp. 22-23.
(27) Australian Department of the Prime Minister and Cabinet, Strong and Secure: A Strategy for Australia’s National Security, Canberra, 2013, p. 4.
(28) J. Wallis, Pacific Power: Australia’s Strategy in the Pacific Islands, Melbourne, 2017.
(29) Chien-jung Hsu, “Australia’s Indo-Pacific Strategy under the Albanese Labor Government”, Taiwan Strategists, 2022, 14, pp. 41-58, pp. 50-51.
(30) Department of Defence, Defence White Paper 2013, Canberra, 2013, p. 8.
(31) J. Lee: “Australia’s 2015 Defence White Paper: Seeking Strategic Opportunities in Southeast Asia to help manage China’s Peaceful Rise”, Contemporary Southeast Asia, 2013, vol. 35, pp. 395-422, p. 412.
(32) Hervé Lemahieu: “The case for Australia to step up in Southeast Asia”, Lowy Institute for International Policy, 2020, pp. 1-15, p. 3.