Thực tiễn

Chuyển đổi số cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam - Thực trạng và khuyến nghị chính sách

31/07/2025 18:00

LLCT - Chuyển đổi số là xu hướng chủ đạo hiện nay tại các doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng suất, mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiện nay, doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam bắt đầu tiếp cận chuyển đổi số nhưng chủ yếu dừng ở mức độ “khởi động” do vướng mắc về chi phí, nhân lực và nhận thức. Bài viết phân tích thực trạng, cơ hội, thách thức chuyển đổi số trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp chính sách nhằm thúc đẩy quá trình này.

TS VƯƠNG QUỐC THẮNG
Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

ThS VƯƠNG QUỐC HÙNG
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Công nghệ thực tế ảo giúp các doanh nghiệp du lịch cung cấp các dịch vụ thuận tiện nhất, tốt nhất tới khách du lịch_Ảnh: TTXVN

1. Mở đầu

Theo quy định tại Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có quy mô lao động tham gia bảo hiểm xã hội và doanh thu hoặc tổng nguồn vốn không vượt quá một ngưỡng nhất định, được chia thành ba loại: siêu nhỏ, nhỏ và vừa. Tính đến năm 2024, Việt Nam có khoảng hơn 850.000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó hơn 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp này đóng góp khoảng 45% GDP và tạo ra hơn 60% việc làm trong nền kinh tế (1). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và công nghệ số đang đặt ra yêu cầu cấp thiết về chuyển đổi số (CĐS) cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đó không chỉ là quá trình tích hợp công nghệ số, mà còn là bước tái cấu trúc toàn diện giúp doanh nghiệp tăng năng suất và khả năng thích ứng.

Thời gian vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, như Chương trình Chuyển đổi số quốc gia và Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm thúc đẩy quá trình này. Các nền tảng chuyển đổi số như SMEdx và OneSME đang giúp nhiều doanh nghiệp tiếp cận công nghệ chi phí thấp. Trong bối cảnh hiện nay, việc tiếp tục hoàn thiện các chính sách nhằm thúc đẩy CĐS cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là việc làm quan trọng, cần thiết.

2. Nội dung

2.1. Thực trạng chuyển đổi số trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

Chuyển đổi số (digital transformation) là quá trình tích hợp công nghệ số vào mọi hoạt động của doanh nghiệp nhằm thay đổi mô hình kinh doanh, tăng hiệu quả và sáng tạo(2). Chuyển đổi số đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh kinh tế số hiện nay: (1) CĐS giúp nâng cao hiệu quả quản lý và vận hành thông qua tự động hóa các quy trình như kế toán, bán hàng, nhân sự. (2) giúp doanh nghiệp tiếp cận khách hàng nhanh chóng và hiệu quả hơn nhờ các nền tảng số như mạng xã hội, sàn thương mại điện tử. (3) tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, vượt qua giới hạn địa lý. (4) doanh nghiệp có thể tối ưu chi phí hoạt động, từ đó tăng khả năng cạnh tranh. (5) CĐS góp phần cải thiện trải nghiệm khách hàng thông qua dịch vụ cá nhân hóa. Ngoài ra, dữ liệu thu thập từ các nền tảng số còn hỗ trợ doanh nghiệp phân tích hành vi khách hàng và ra quyết định chính xác. Chuyển đổi số còn giúp doanh nghiệp thích ứng nhanh với biến động thị trường. Đặc biệt, trong bối hiện nay, chuyển đổi số trở thành “chìa khóa” thành công của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa nếu không đổi mới sẽ khó tồn tại và phát triển. Do đó, việc đầu tư vào công nghệ, nâng cao kỹ năng số và xây dựng chiến lược chuyển đổi số là xu thế tất yếu.

Đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa là lực lượng chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, CĐS không chỉ mang lại lợi ích về hiệu quả hoạt động, mở rộng thị trường mà còn là điều kiện sống còn để nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh số hóa toàn cầu.

Thực tiễn cho thấy, doanh nghiệp nhỏ và vừa thường gặp khó khăn trong quá trình CĐS do thiếu vốn, nhân lực và kỹ năng; hầu hết chỉ sử dụng công cụ cơ bản (email, mạng xã hội), trong khi việc ứng dụng công nghệ nâng cao như AI, IoT, điện toán đám mây còn rất hạn chế(3). Bên cạnh đó, lãnh đạo thiếu tầm nhìn hoặc ngại thay đổi có thể làm gián đoạn tiến trình CĐS. Từ kinh nghiệm quốc tế, có ba nhóm hỗ trợ chính cho doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm: (1) nâng cao năng lực nội tại; (2) cải thiện tiếp cận công nghệ - tài chính; (3) hoàn thiện thể chế.

Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đang đẩy mạnh CĐS trên toàn quốc, trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định là trọng tâm ưu tiên. Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đặt mục tiêu kinh tế số chiếm 20% GDP vào năm 2025 và 30% vào năm 2030.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã triển khai Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025, hướng đến mục tiêu 100.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa được tư vấn, đào tạo và kết nối giải pháp. Đến cuối năm 2024, gần 14.200 lượt doanh nghiệp được đào tạo; hơn 150 tư vấn viên hỗ trợ trực tiếp 400 doanh nghiệp với tổng cộng 32.000 giờ tư vấn. Cổng thông tin digital.business.gov.vn cung cấp tài liệu, bài giảng, công cụ đánh giá CĐS và đã thu hút trên 2 triệu lượt truy cập, với 5.000 doanh nghiệp tự đánh giá mức độ sẵn sàng.

Bên cạnh đó, Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai chương trình SMEdx, phát triển các nền tảng số Make in Vietnam. Đến năm 2022, hơn 500.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận, trong đó 70.000 doanh nghiệp đã sử dụng các nền tảng như kế toán, bán hàng, chữ ký số, điện toán đám mây. Việc phát triển Mô hình Software as a Service (SaaS) - một mô hình cung cấp phần mềm dựa trên nền tảng đám mây, trong đó các ứng dụng được phát triển, lưu trữ và quản lý bởi nhà cung cấp dịch vụ, giúp doanh nghiệp sử dụng công nghệ linh hoạt mà không cần đầu tư hạ tầng.

Về hóa đơn điện tử từ máy tính tiền: đến giữa năm 2024 có 67.658 cơ sở kinh doanh đăng ký, với 516 triệu hóa đơn được tạo. Ứng dụng di động đạt trên 10 triệu người dùng chủ yếu thuộc lĩnh vực thanh toán điện tử.

Một số mô hình khởi nghiệp startup trong lĩnh vực fintech, edtech, logistics đã tận dụng công nghệ mở rộng nhanh chóng; nhiều doanh nghiệp truyền thống bắt đầu số hóa quy trình như áp dụng hệ thống theo dõi đơn hàng, máy móc tự động...

Tuy nhiên, CĐS trong doanh nghiệp nhỏ và vừa còn nhiều hạn chế, chỉ 2,2% doanh nghiệp làm chủ công nghệ, 6,2% xác định rõ mục tiêu CĐS và 7,6% có kế hoạch cụ thể. Đáng chú ý, 48,8% doanh nghiệp từng dùng giải pháp số nhưng sau đó ngừng do không còn phù hợp(4).

Tính đến tháng 6-2024, tổng số lượt doanh nghiệp tiếp cận Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đạt 1,22 triệu lượt; 333.950 doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số do chương trình cung cấp. Đã có 63/63 tỉnh và 13/22 bộ, ngành hoàn thành tích hợp hệ thống thông tin thủ tục hành chính; còn 6 bộ ngành chưa hoàn tất tích hợp các thủ tục quan trọng(5). Việc kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước còn hạn chế, khiến nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thể tiếp cận đầy đủ dịch vụ công số toàn trình.

Nhìn chung, tiến trình CĐS trong doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam vẫn ở giai đoạn đầu. Dù đã có nhiều chính sách và công cụ hỗ trợ, số doanh nghiệp thực sự bước vào CĐS còn khiêm tốn do các nguyên nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất, hạn chế về tài chính và nhân lực. Theo khảo sát, chỉ 36,7% doanh nghiệp có ngân sách đáp ứng nhu cầu CĐS, 43,3% có dự toán nhưng không đủ, và 20% hoàn toàn không có ngân sách cho CĐS. Ngoài ra, hơn 60% doanh nghiệp trì hoãn CĐS vì chi phí đầu tư công nghệ cao mà hiệu quả chưa thấy rõ trong ngắn hạn(6).

Thiếu hụt nhân lực chuyên môn cho CĐS tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng là vấn đề nghiêm trọng. Theo VCCI, 54% dự án CĐS bị trì hoãn do thiếu nhân sự kỹ thuật(10). Trong ngành logistics, hơn 42% doanh nghiệp cho rằng thiếu vốn và nhân sự là lý do chính khiến họ chậm triển khai CĐS(7).

Thứ hai, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu hiểu biết đầy đủ về CĐS. Theo khảo sát của VINASA năm 2019, 30,7% doanh nghiệp nghe nói nhưng không biết bắt đầu từ đâu và 5,1% chưa hiểu gì về CĐS. Như vậy, gần 36% doanh nghiệp còn mơ hồ về lợi ích và phương pháp triển khai. Tâm lý “chờ xem”, ngại rủi ro và ngại thay đổi khiến họ không hành động, dù đã được truyền thông rộng rãi.

Thứ ba, việc lựa chọn và triển khai giải pháp công nghệ phù hợp còn nhiều trở ngại. Doanh nghiệp nhỏ và vừa lúng túng trong việc chọn phần mềm hoặc sử dụng giải pháp quá phức tạp, không phù hợp quy mô; một số doanh nghiệp dừng sử dụng do không thấy hiệu quả(8).

Thứ tư, lo ngại về an ninh mạng và bảo mật dữ liệu khiến doanh nghiệp e dè khi đưa dữ liệu lên môi trường số. Họ thiếu hệ thống bảo mật chuyên nghiệp và kiến thức phòng tránh rủi ro an ninh, trong khi các vụ tấn công mạng ngày càng phổ biến.

2.2. Khuyến nghị chính sách

Để thúc đẩy CĐS hiệu quả trong khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần một chiến lược đồng bộ, có sự phối hợp giữa Nhà nước - doanh nghiệp - tổ chức hỗ trợ. Trong đó, Nhà nước cần có vai trò dẫn dắt, đưa ra những cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp CĐS là:

Thứ nhất, hoàn thiện chính sách và khung pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa CĐS

Đây là nền tảng quan trọng để thúc đẩy chuyển đổi số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trước hết, cần sửa đổi, bổ sung Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và các văn bản liên quan để cập nhật các nội dung mới về chuyển đổi số, kinh tế số. Chính phủ nên ban hành chương trình hỗ trợ CĐS giai đoạn 2026-2030 với mục tiêu cụ thể, như 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng dụng nền tảng số và 50% tích hợp công nghệ mới như 5G, IoT. Cần xây dựng các chính sách ưu đãi thuế, giảm chi phí tuân thủ pháp luật để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ. Đồng thời, hoàn thiện hạ tầng pháp lý cho giao dịch số, chữ ký số, lưu trữ đám mây, bảo vệ dữ liệu cá nhân. Các quy định về an toàn thông tin, chống tội phạm mạng cần được cập nhật phù hợp thực tiễn. Tăng cường kiểm soát chất lượng các nền tảng số cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đẩy mạnh cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành để tránh chồng chéo. Từ đó, tạo môi trường pháp lý minh bạch, ổn định, hỗ trợ doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào CĐS.

Thứ hai, nâng cao nhận thức và khơi dậy động lực CĐS cho doanh nghiệp

Cần đẩy mạnh tuyên truyền về lợi ích thiết thực của CĐS thông qua việc tổ chức các diễn đàn, hội thảo, chương trình truyền hình, chiến dịch truyền thông trên nền tảng số để lan tỏa thông tin. Việc chia sẻ mô hình CĐS thành công từ doanh nghiệp đi trước sẽ tạo niềm tin và cảm hứng cho doanh nghiệp đi sau. Đồng thời, nên xây dựng các ấn phẩm, video hướng dẫn dễ hiểu, phù hợp với từng ngành nghề. Cần phát huy vai trò của hiệp hội ngành nghề, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong việc tư vấn, đồng hành cùng doanh nghiệp. Các địa phương nên tổ chức định kỳ Ngày Chuyển đổi số, gắn với hoạt động tư vấn và kết nối công nghệ. Khuyến khích chính quyền cấp xã, phường cùng vào cuộc hỗ trợ doanh nghiệp trên địa bàn. Tạo ra môi trường học hỏi cởi mở, thân thiện sẽ giúp doanh nghiệp mạnh dạn thay đổi. Quan trọng hơn, cần nuôi dưỡng tư duy đổi mới và khát vọng vươn lên trong mỗi chủ doanh nghiệp.

Thứ ba, phát triển kỹ năng số và đào tạo nguồn nhân lực cho chuyển đổi số

Phát triển kỹ năng số và đào tạo nguồn nhân lực là nền tảng quan trọng để doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện chuyển đổi số hiệu quả. Cần xây dựng các chương trình đào tạo ngắn hạn, thực tiễn cho lãnh đạo và nhân viên, tập trung vào kỹ năng sử dụng phần mềm, thương mại điện tử, an toàn thông tin. Chính phủ nên hỗ trợ phát triển nền tảng học trực tuyến và cung cấp các khóa học miễn phí hoặc trợ giá. Các trường nghề, cao đẳng, đại học cần mở thêm ngành học mới liên quan đến chuyển đổi số như quản trị nền tảng số, dữ liệu lớn, IoT. Đồng thời, cần hình thành mạng lưới chuyên gia tư vấn và cố vấn số để đồng hành cùng doanh nghiệp. Mô hình đào tạo tại chỗ, thông qua sự hợp tác giữa trường - viện - doanh nghiệp sẽ giúp người học tiếp cận công nghệ thực tế. Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp khi đầu tư vào đào tạo kỹ năng số cho nhân viên. Việc phát triển hệ thống chứng chỉ kỹ năng số cũng cần được thúc đẩy để chuẩn hóa chất lượng nguồn nhân lực. Các địa phương nên thành lập trung tâm đào tạo chuyển đổi số và “phòng thí nghiệm số” để doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ mới. Sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo sẽ là chìa khóa nâng cao năng lực cạnh tranh trong kỷ nguyên mới.

Thứ tư, hỗ trợ tài chính và tiếp cận công nghệ phù hợp

Đây là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt qua rào cản trong chuyển đổi số. Nhà nước cần thành lập Quỹ hỗ trợ chuyển đổi số quốc gia, cung cấp vốn vay ưu đãi hoặc tài trợ một phần chi phí mua phần mềm, thuê dịch vụ công nghệ. Khuyến khích các ngân hàng phát triển sản phẩm tín dụng số dựa trên dữ liệu giao dịch, hóa đơn điện tử, không yêu cầu tài sản thế chấp. Đa dạng hóa hình thức hỗ trợ như voucher công nghệ, gói dùng thử miễn phí từ doanh nghiệp công nghệ uy tín. Đẩy mạnh hợp tác công - tư để triển khai các giải pháp “may đo” phù hợp với từng ngành nghề và quy mô doanh nghiệp. Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận các nền tảng công nghệ Make in Vietnam với chi phí hợp lý, dễ sử dụng. Xây dựng hệ thống đánh giá tín nhiệm số giúp doanh nghiệp chứng minh năng lực tài chính và kỹ thuật khi tiếp cận vốn. Tăng cường kết nối doanh nghiệp với quỹ đầu tư mạo hiểm, tổ chức quốc tế có chương trình tài trợ chuyển đổi số. Tổ chức hội chợ công nghệ, tuần lễ chuyển đổi số giúp doanh nghiệp tìm kiếm đối tác công nghệ phù hợp. Đây là bước đệm quan trọng để doanh nghiệp tăng tốc số hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.

Thứ năm, xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ và bảo đảm niềm tin số

Trước hết, cần tiếp tục đẩy mạnh chương trình “bình dân học vụ số”, phát triển mạng lưới tư vấn, đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật đồng bộ trên cả nước. Xây dựng bộ tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ số, bảo đảm minh bạch và uy tín của các nhà cung cấp. Khuyến khích giải pháp công nghệ “may đo” phù hợp với từng lĩnh vực và quy mô doanh nghiệp. Đồng thời, cần ban hành khung pháp lý rõ ràng về bảo vệ dữ liệu cá nhân, an toàn thông tin mạng và giao dịch số. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ bảo mật giá thấp nhưng chất lượng. Tăng cường truyền thông về an toàn số, nâng cao nhận thức phòng chống rủi ro mạng. Xây dựng cổng thông tin tra cứu giải pháp công nghệ uy tín, dễ tiếp cận. Phát triển nền tảng đánh giá tín nhiệm số và xếp hạng uy tín nhà cung cấp công nghệ. Sự phối hợp giữa Nhà nước, doanh nghiệp công nghệ và hiệp hội nghề nghiệp sẽ tạo nên hệ sinh thái tin cậy, thúc đẩy quá trình CĐS bền vững.

Trong bối cảnh quốc tế hóa và toàn cầu hóa mạnh mẽ, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm quốc tế về CĐS doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm rút ngắn quá trình này. Nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Xinhgapo, Đức đã xây dựng chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa với lộ trình rõ ràng, gắn kết giữa Nhà nước - doanh nghiệp - tổ chức công nghệ. Hàn Quốc triển khai chương trình Smart Factory hỗ trợ 70% chi phí số hóa quy trình sản xuất. Singapore phát triển bộ công cụ số hóa cơ bản (starter pack) giúp doanh nghiệp bắt đầu dễ dàng. Đức chú trọng kết nối giữa viện nghiên cứu - doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn số hóa. Việt Nam có thể học hỏi mô hình tài chính số, tín dụng không tài sản thế chấp từ Ấn Độ và Inđônêxia. Cần nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng chỉ số đánh giá mức độ số hóa của doanh nghiệp như mô hình EU. Tăng cường hợp tác quốc tế, tiếp nhận nguồn viện trợ kỹ thuật từ OECD, ADB, GIZ, USAID… Đồng thời, lựa chọn linh hoạt mô hình phù hợp với điều kiện địa phương, ngành nghề cụ thể. Việc học hỏi có chọn lọc sẽ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam chuyển đổi số hiệu quả và bền vững.

3. Kết luận

CĐS là xu hướng chủ đạo định hình tương lai doanh nghiệp. Đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa là lực lượng chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, CĐS không chỉ mang lại lợi ích về hiệu quả hoạt động, mở rộng thị trường mà còn là điều kiện sống còn để nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh số hóa toàn cầu. Thực tế tại Việt Nam cho thấy, dù doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có những bước đi đầu tiên, mức độ ứng dụng còn thấp, chủ yếu mới dừng ở mức cơ bản. Các rào cản về nhận thức, tài chính, nhân lực… vẫn là trở lực chính.

Trong bối cảnh đó, vai trò kiến tạo và “bà đỡ” từ Nhà nước đóng vai trò then chốt. Các chính sách hỗ trợ cần được triển khai đồng bộ, từ nâng cao nhận thức, phát triển kỹ năng, hỗ trợ tài chính đến xây dựng hệ sinh thái công nghệ an toàn và phù hợp với đặc thù doanh nghiệp nhỏ và vừa.

_________________

Ngày nhận bài: 06-7-2025; Ngày bình duyệt: 10-7-2025; Ngày duyệt đăng: 27-7-2025.

Email tác giả: thangvq7979@gmail.com

(1) Tùng Linh: Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: doanh nghiệp nhỏ và vừa luôn có vị trí đặc biệt, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, https://mpi.gov.vn, ngày 28-8-2024.

(2) G.Vial: Understanding digital transformation: A review and a research agenda, The Journal of Strategic Information Systems, Vol.28, Issue 2, June 2019, p.118-144.

(3) OECD: The Digital Transformation of SMEs, OECD Studies on SMEs and Entrepreneurship. OECD Publishing, https://doi.org/10.1787/bdb9256a-en.

(4) Hạnh Nguyễn: Báo cáo chuyển đổi số: Chỉ có 2,2% doanh nghiệp làm chủ công nghệ, https://www.vietnamplus.vn, ngày 16-2-2023.

(5) Bộ Thông tin và Truyền thông: Báo cáo tình hình chuyển đổi số quốc gia tháng 6 năm 2024, https://mic.mediacdn.vn,

(6) VINASA: Chuyển đổi số: Khi chi phí không còn là rào cản, https://www.vinasa.org.vn.

(7) Ngọc Quỳnh: Chuyển đổi số của doanh nghiệp logistics còn nhiều khó khăn, https://www.vietnamplus.vn, ngày 16-5-2022.

(8) Vietnam Investment Review: Over 57.5% of Vietnamese SMEs struggle with digital transformation: How can they cope with the challenge?, https://vir.com.vn.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Chuyển đổi số cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam - Thực trạng và khuyến nghị chính sách
    POWERED BY