(LLCT) - Bài viết khái quát về hoạt động khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay, làm rõ những khó khăn, thách thức và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam. Bài viết là một phần kết quả nghiên cứu của đề tài cấp Nhà nước “Chính sách và giải pháp phát triển nhân lực khoa học, công nghệ trẻ trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong giai đoạn 2021-2030”, mã số ĐTĐLXH.07/22.
TS ĐẶNG VŨ CẢNH LINH
Viện Bồi dưỡng, Đào tạo và Nghiên cứu khoa học,
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1. Mở đầu
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã xác lập vị trí, vai trò trung tâm của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, là động lực cơ bản của sự phát triển mới.
Khoa học, công nghệ trực tiếp tham gia và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia. Yêu cầu kết nối nghiên cứu khoa học với sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy các cơ chế phối hợp liên ngành, liên lĩnh vực giữa các cơ quan khoa học và doanh nghiệp hướng đến áp dụng sâu rộng những thành tựu khoa học, công nghệ trong thực tiễn đã được khẳng định trong Nghị quyết cho thấy sự chỉ đạo quyết liệt, quyết tâm của Đảng đối với toàn hệ thống chính trị, đồng thời mở ra nhiều cơ hội phát triển đối với doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) nói riêng.
Đối với các SMEs, việc ứng dụng khoa học, công nghệ không chỉ đơn thuần là một xu hướng mà đã trở thành yếu tố then chốt, quyết định khả năng tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các giải pháp ứng dụng khoa học, công nghệ mới, chuyển đổi số giúp SMEs cải thiện quy trình sản xuất theo hướng tiện lợi, tự động, giảm chi phí vận hành, tăng tốc độ sản xuất, quản lý doanh nghiệp, kế toán, kho vận giúp tối ưu hóa nguồn lực doanh nghiệp. Bên cạnh đó, với nhiều doanh nghiệp, hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) kết hợp chuyển đổi số và ứng dụng AI, đã trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, góp phần cải tiến và phát triển sản phẩm/dịch vụ, giúp SMEs tạo ra sản phẩm mới phù hợp hơn với nhu cầu thị trường, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua tiếp cận thị trường thông minh bằng các công cụ thương mại điện tử, marketing số…
Chính vì vậy, khoa học, công nghệ đang trở thành sự lựa chọn, đầu tư chủ động của doanh nghiệp chứ không phải là sự áp đặt của chính sách hay thị trường. Điều này có ý nghĩa quyết định đến khả năng tồn tại và phát triển của SMEs, đồng thời tạo ra những bước đột phá, thúc đẩy SMEs từng bước phát triển, đóng góp nhiều hơn cho kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
2. Nội dung
2.1. Tổng quan phương pháp và mẫu nghiên cứu
Tại Việt Nam, tính đến 31-12-2022, mặc dù SMEs chiếm 97,3% tổng số doanh nghiệp và 36,1% tổng số lao động khu vực doanh nghiệp, nhưng khả năng ứng dụng khoa học, công nghệ của khu vực này vẫn còn hạn chế(1).
Nghiên cứu này nhằm mục đích: (1) Đánh giá nhận thức của SMEs về vai trò của khoa học, công nghệ; (2) Phân tích thực trạng ứng dụng khoa học, công nghệ và hoạt động R&D trong SMEs; (3) Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ trong SMEs hiện nay.
Bài viết sử dụng và phân tích số liệu khảo sát của đề tài cấp Nhà nước về “Chính sách và giải pháp phát triển nhân lực khoa học công nghệ trẻ trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong giai đoạn 2021-2030”, mã số ĐTĐLXH.07/22. Số liệu khảo sát gồm: 300 phiếu thống kê của 300 doanh nghiệp vừa và nhỏ, 1.420 nhân lực khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ (trong đó 1.200 bảng hỏi anket và 220 phỏng vấn sâu) tại 8 tỉnh, thành phố, gồm: Thành phố Hà Nội, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Cần Thơ, Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh.
Mẫu khảo sát doanh nghiệp cho thấy, sự phân bố khá đa dạng về ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, các nhóm lĩnh vực lớn gồm xây dựng (19,7%); các dịch vụ xã hội và đời sống (19,6%); giáo dục, y tế, truyền thông (18,3%); khoa học, kỹ thuật, công nghệ (17,3%); sản xuất thực phẩm, hàng gia dụng (11,0%); công nghệ thông tin, phần mềm (6,0%); tài chính, ngân hàng (3,3%); vận chuyển, giao thông, logistic (4,7%); nghề khác (5,5%). Về quy mô doanh nghiệp, mẫu có phân bố: doanh nghiệp siêu nhỏ (17,1%); doanh nghiệp nhỏ (42,3%); doanh nghiệp vừa (40,6%).
Toàn bộ dữ liệu định lượng được phân tích bằng phần mềm SPSS 20.0 với các test thống kê mô tả và kiểm định Chi-square.
2.2. Hoạt động khoa học, công nghệ trong doanh nghiệp vừa và nhỏ
Một là, nhận thức và ứng dụng khoa học, công nghệ
Kết quả khảo sát cho thấy có 86% doanh nghiệp cho rằng, khoa học, công nghệ có vai trò từ quan trọng đến rất quan trọng đối với lĩnh vực kinh doanh, trong khi tỷ lệ này ở lĩnh vực sản xuất là 80,6%. Ngoài ra, có 55,5% doanh nghiệp nhận định yếu tố này cũng quan trọng trong các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, vẫn còn dưới 15% doanh nghiệp chưa nhận thức đúng về vai trò của khoa học, công nghệ (chưa nghĩ tới hay đánh giá ở mức không quan trọng).
Như vậy, theo kết quả khảo sát, đa số SMEs hiện nay đều rất quan tâm, chú trọng khoa học, công nghệ đối với phát triển doanh nghiệp và đó không còn là lựa chọn “có thì tốt, không có không sao” mà khoa học, công nghệ ngày càng trở thành chìa khóa mở ra cánh cửa phát triển, tối ưu hóa quy trình sản xuất, quản lý, tiết kiệm chi phí, tăng hiệu suất đem lại những giải pháp thiết thực, hiệu quả cho doanh nghiệp.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, 47,8% SMEs đã từng ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ, 18,4% doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu, đổi mới và sáng tạo trong lĩnh vực này và 14,3% doanh nghiệp kết hợp cả hai hoạt động: áp dụng thành tựu và nghiên cứu đổi mới, sáng tạo khoa học, công nghệ. Chỉ có khoảng gần 1/5 doanh nghiệp (19,5%) chưa quan tâm đầu tư, ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất, kinh doanh.
Xét theo quy mô, nhóm doanh nghiệp siêu nhỏ có tỷ lệ không áp dụng khoa học, công nghệ cao nhất, nhóm doanh nghiệp nhỏ có xu hướng áp dụng thành tựu khoa học, công nghệ nhiều hơn. Đặc biệt, nhóm doanh nghiệp vừa cho thấy sự kết hợp mạnh mẽ giữa nghiên cứu, đổi mới, sáng tạo và ứng dụng khoa học, công nghệ, đạt tỷ lệ cao nhất trong ba nhóm quy mô doanh nghiệp.
Bảng 1: Tình hình ứng dụng khoa học, công nghệ với quy mô doanh nghiệp
Đơn vị: % doanh nghiệp
TT | Yếu tố khoa học, công nghệ | Chung | Quy mô doanh nghiệp | ||
Doanh nghiệp siêu nhỏ | Doanh nghiệp nhỏ | Doanh nghiệp vừa | |||
1 | Có áp dụng thành tựu khoa học, công nghệ | 47,8 | 32,0 | 54,0 | 47,9 |
2 | Có nghiên cứu, đổi mới, sáng tạo | 18,4 | 18,0 | 15,3 | 21,8 |
3 | Có áp dụng cả hai | 14,3 | 16,0 | 12,1 | 16,0 |
4 | Không | 19,5 | 34,0 | 18,6 | 14,3 |
(P>0,05), Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài ĐTĐLXH.07/22.
Đối với 19,5% doanh nghiệp chưa thực hiện ứng dụng khoa học, công nghệ trong quá trình hoạt động, lý do chủ yếu họ đưa ra là cảm thấy không cần thiết phải áp dụng khoa học, công nghệ (60,0%). Tiếp theo là vấn đề về kinh phí, với 16,0% doanh nghiệp cho rằng họ không có đủ nguồn lực tài chính. Ngoài ra, 24% doanh nghiệp nêu ra các lý do khác. Thực tế khảo sát cho thấy, một số doanh nghiệp cho rằng, họ chủ yếu hoạt động dưới hình thức sản xuất kinh doanh đơn giản và nhỏ lẻ, dẫn đến việc không có nhu cầu áp dụng khoa học, công nghệ trong quy trình hoạt động của mình.
Về đầu tư cho khoa học, công nghệ, theo kết quả khảo sát vẫn còn ở mức khá khiêm tốn. Đa số doanh nghiệp tham gia khảo sát dành dưới 10% vốn đầu tư cho phát triển công nghệ (chiếm 35% doanh nghiệp) và 28,7% doanh nghiệp dành từ 10% đến dưới 20% cho hoạt động nói trên. Cùng với đó, ở mức đầu tư từ 20% đến dưới 30% và từ 30% chỉ có khoảng 15% doanh nghiệp thực hiện. Đáng chú ý, có 6,3% doanh nghiệp không sử dụng vốn đầu tư chung vào hoạt động phát triển công nghệ.
Tìm hiểu cụ thể về hoạt động ứng dụng khoa học, công nghệ, kết quả phân tích bảng 2 cho thấy, trên 50% doanh nghiệp đã chủ động ứng dụng khoa học, công nghệ vào ít nhất một trong các lĩnh vực quan trọng, cốt lõi của quy trình hoạt động sản xuất hoặc quy trình kinh doanh (nhiều doanh nghiệp cũng lựa chọn ứng dụng trong cả 2 quy trình này).
Tỷ lệ cao nhất về việc đầu tư và sử dụng máy móc thiết bị (70,0%), tiếp đến là ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số (66,3%). Các lĩnh vực marketing, PR, truyền thông và quản lý nhân lực cũng đạt tỷ lệ đáng kể, lần lượt là 53,9% và 51,4%.
Tuy nhiên, theo số liệu, vẫn còn nhiều lĩnh vực quan trọng có tỷ lệ ứng dụng khoa học, công nghệ ở mức trung bình hoặc thấp. Đáng chú ý, có 45,3% SMEs ứng dụng công nghệ trong quản lý đầu ra thị trường và quản lý chất lượng sản phẩm, trong khi con số này ở hoạt động quản lý đầu vào nguyên liệu là 35,4% và xử lý môi trường, rác thải chỉ đạt 23,0%. Đặc biệt, tỷ lệ ứng dụng công nghệ trong hoạt động xuất nhập khẩu còn rất thấp, chỉ đạt 18,1%.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học, công nghệ trong các hoạt động đầu tư, sử dụng máy móc thiết bị (47,3%), quản lý đầu vào nguyên liệu (25,1%), quản lý chất lượng sản phẩm (26,7%), xử lý môi trường, rác thải (15,6%) chủ yếu được áp dụng đối với lĩnh vực sản xuất.
Các hoạt động công nghệ thông tin, chuyển đổi số (51,5%); quản lý đầu ra thị trường, bán hàng (35,3%); quản lý nhân lực (38,3%) hay marketing, PR, truyền thông (47,8%) lại được áp dụng nhiều hơn trong lĩnh vực kinh doanh. Ngoài ra, tỷ lệ triển khai các hoạt động ứng dụng khoa học, công nghệ đồng thời trên cả khía cạnh sản xuất và kinh doanh trong một doanh nghiệp là khá thấp, chỉ chiếm dưới 13%.
Cũng theo kết quả khảo sát, nguồn gốc ứng dụng khoa học, công nghệ được triển khai trong các SMEs hiện nay chủ yếu xuất phát từ việc nhận chuyển giao từ doanh nghiệp trong nước (50,8%); lấy, mua ý tưởng cộng đồng (39,6%). Đặc biệt là có 30,5% doanh nghiệp tự nghiên cứu, sáng chế hình thành công nghệ, tỷ lệ cao hơn 27,1% doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài.
Bảng 2: Tình hình áp dụng khoa học, công nghệ vào hoạt động của doanh nghiệp
Đơn vị: % doanh nghiệp
TT | Hoạt động | Sản xuất | Kinh doanh | Không áp dụng |
1 | Đầu tư/ sử dụng máy móc thiết bị | 47,3 | 32,5 | 30,0 |
2 | Công nghệ thông tin/ chuyển đổi số | 27,6 | 51,5 | 33,7 |
3 | Quản lý đầu vào nguyên liệu | 25,1 | 16,9 | 64,6 |
4 | Quản lý đầu ra thị trường, bán hàng | 18,5 | 35,3 | 54,7 |
5 | Quản lý chất lượng sản phẩm | 26,7 | 25,9 | 54,7 |
6 | Quản lý nhân lực | 22,3 | 38,3 | 48,6 |
7 | Xử lý môi trường, rác thải | 15,6 | 10,7 | 77,0 |
8 | Xuất, nhập khẩu | 10,3 | 10,3 | 81,9 |
9 | Marketing, PR, Truyền thông | 16,1 | 47,8 | 46,1 |
10 | Khác | 2,1 | 1,6 | 96,3 |
Nguồn: Kết quả khảo sát của Đề tài ĐTĐLXH.07/22.
Như vậy, hiện nay nhiều SMEs đã nhận thấy lợi ích của nghiên cứu, phát triển, đổi mới sáng tạo, đã bắt đầu hành trình từ áp dụng công nghệ - số hóa - cải tiến - hướng tới R&D và đổi mới sáng tạo mạnh mẽ hơn. Đồng thời, nhiều SMEs chọn mô hình phù hợp khi “săn” ý tưởng của các nhà khoa học để triển khai trong thực tiễn. Xu hướng tự chủ, nội địa hóa khoa học, công nghệ luôn là con đường đúng đắn cho các SMEs, vừa bảo đảm sản xuất, kinh doanh, vừa tiết kiệm chi phí, bởi quy trình nhập khẩu công nghệ của nước ngoài khá đắt đỏ.
Về hiệu quả của hoạt động khoa học, công nghệ, đa số doanh nghiệp đưa ra đánh giá khả quan với mức trung bình/đạt ở các nội dung như: Cải thiện về năng suất lao động (59,7%); trình độ khoa học, công nghệ (59,7%); trình độ tay nghề của nhân lực (57,2%) và quy trình quản lý (30,5%). Các tiêu chí liên quan trực tiếp đến sản phẩm và khách hàng chủ yếu nhận được đánh giá ở mức cao/tốt, với 48,6% doanh nghiệp ghi nhận sự cải thiện tốt về chất lượng sản phẩm và 48,1% về khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Tuy nhiên, vẫn còn một tỷ lệ từ 10% đến 20% doanh nghiệp, chưa nhận thấy hiệu quả hoặc thậm chí đánh giá kém tích cực về kết quả ứng dụng khoa học, công nghệ. Thực trạng này đặt ra một số vấn đề đáng quan ngại và cần được phân tích kỹ lưỡng. Việc đầu tư vào khoa học, công nghệ không bảo đảm hiệu quả, mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như chiến lược ứng dụng, năng lực tiếp nhận công nghệ của doanh nghiệp và khả năng tích hợp công nghệ mới vào quy trình sản xuất kinh doanh hiện có. Tỷ lệ doanh nghiệp chưa ghi nhận hiệu quả phản ánh những thách thức trong chuyển đổi công nghệ, từ việc lựa chọn giải pháp phù hợp, đào tạo nhân lực, đến khó khăn trong việc tối ưu hóa quy trình sau khi áp dụng công nghệ mới.
Để hiểu rõ hơn hoạt động ứng dụng khoa học, công nghệ của các doanh nghiệp, Bảng 3 liệt kê 9 hệ thống ứng dụng khoa học, công nghệ tiêu chuẩn trong quá trình sản xuất, kinh doanh để các doanh nghiệp lựa chọn. Kết quả bảng 3 cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng các hệ thống quản trị hiện đại, thông minh chưa cao. Thậm chí hơn ½ doanh nghiệp trong khảo sát chưa từng quan tâm đến 1 trong 9 hệ thống nêu trên.
Bảng 3. Tình hình sử dụng các hệ thống có ứng dụng khoa học, công nghệ
Đơn vị: % doanh nghiệp
TT | Hệ thống ứng dụng khoa học, công nghệ | Có | Không | Dự kiến áp dụng |
1 | MES - Hệ thống thực hành sản xuất | 28,0 | 62,6 | 9,4 |
2 | ERP – Lập kế hoạch nguồn lực | 22,5 | 62,6 | 14,8 |
3 | PLM - Quản lý vòng đời sản phẩm | 20,9 | 67,6 | 11,5 |
4 | PDM - Quản lý dữ liệu sản phẩm | 41,2 | 48,4 | 10,4 |
5 | PPS - Hệ thống lập kế hoạch sản xuất | 22,0 | 67,6 | 10,4 |
6 | PDA - Thu thập dữ liệu sản xuất | 25,3 | 64,8 | 9,9 |
7 | MDC - Thu thập dữ liệu máy móc | 21,4 | 71,4 | 7,2 |
8 | CAD - Thiết kế dựa trên dữ liệu máy tính | 40,1 | 47,3 | 12,6 |
9 | SCM - Quản lý chuỗi cung ứng | 24,2 | 59,9 | 15,9 |
Nguồn: Kết quả khảo sát của Đề tài ĐTĐLXH.07/22.
Các hệ thống như MES, ERP, PLM, PDM, PPS, PDA, MDC, CAD, SCM… đều là sản phẩm của khoa học, công nghệ, đặc biệt trong hoạt động công nghệ thông tin, tự động hóa, quản lý sản xuất, tối ưu hóa chuỗi cung ứng, lập kế hoạch, kiểm soát năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hướng đến hình thành nhà máy thông minh và chuỗi cung ứng số trong tương lai. Đây là vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm và ưu tiên tới nếu tham gia đấu thầu, ký hợp đồng hoặc cung ứng cho tập đoàn đa quốc gia, tạo sự tin tưởng của người tiêu dùng, nhà đầu tư, đối tác, tránh bị phạt, bị trả hàng, bị loại khỏi chuỗi cung ứng.
Theo kết quả Bảng 4, việc áp dụng công cụ cải tiến năng suất, chất lượng trong các SMEs còn chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn, chưa được quan tâm nhiều. Phổ biến nhất chỉ có hệ thống Quản lý chất lượng (ISO 9001) chiếm 38,1% doanh nghiệp áp dụng. Bên cạnh đó, là 2 hệ thống chủ yếu được các doanh nghiệp triển khai với mức lựa chọn trên 10%: Quản lý môi trường (ISO 14001) (12,9%) và Quản lý an toàn thông tin (ISO 27001) (12,2%).
Bảng 4: Tình hình áp dụng công cụ quản trị tiêu chuẩn, chất lượng
Đơn vị: % doanh nghiệp
TT | Hệ thống | Chung | Quy mô doanh nghiệp | ||
Doanh nghiệp siêu nhỏ | Doanh nghiệp nhỏ | Doanh nghiệp vừa | |||
1 | Quản lý chất lượng (ISO 9001) | 38,1 | 28,6 | 34,2 | 46,2 |
2 | Quản lý môi trường (ISO 14001) | 12,9 | 14,3 | 11,7 | 13,7 |
3 | Hệ thống kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) | 5,9 | 8,2 | 5,0 | 6,0 |
4 | Quản lý an toàn thông tin (ISO 27001) | 12,2 | 8,2 | 12,5 | 13,7 |
5 | Quản lý an toàn và SKNN (ISO 45001) | 5,6 | 6,1 | 2,5 | 8,5 |
6 | Quản lý trách nhiệm xã hội (ISO 26000) | 7,3 | 2,0 | 7,5 | 9,4 |
7 | Quản lý năng lượng (ISO 50001) | 2,4 | 2,0 | 1,7 | 3,4 |
8 | Quản lý rủi ro (ISO 31000) * | 7,3 | 2,0 | 5,0 | 12,0 |
9 | Quản lý sản xuất nông nghiệp | 1,7 | 2,0 | 1,7 | 1,7 |
10 | Quản lý an toàn thực phẩm (ISO 22000) | 7,7 | 10,2 | 5,0 | 9,4 |
11 | Tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt (GMP) | 7,3 | 8,2 | 5,0 | 9,4 |
12 | Hệ thống quản lý khác | 5,9 | 4,1 | 5,0 | 7,7 |
(P<0,05), Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát Đề tài ĐTĐLXH.07/22.
Số liệu khảo sát xác định nhu cầu cấp thiết về việc thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp gia tăng tỷ lệ tiếp cận và triển khai các công cụ quản lý hiện đại, dựa vào công nghệ, đặc biệt là tiêu chuẩn (ISO 9001, 14001, 45001, 22000…) và các tiêu chuẩn chuyên ngành để cải thiện năng suất, chất lượng và gia tăng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.
Hai là, hoạt động nghiên cứu và phát triển
Nghiên cứu và phát triển (R&D) đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp thông qua các hoạt động cải tiến sản phẩm, tối ưu hóa quy trình sản xuất và phát triển những giải pháp mới, đáp ứng nhu cầu thị trường. Đặc biệt, R&D giúp doanh nghiệp không chỉ theo kịp các xu hướng công nghệ và thị trường, mà còn mở rộng cơ hội phát triển thị trường mới và nâng cao giá trị thương hiệu.
Theo kết quả khảo sát, chỉ có 16,3% doanh nghiệp cho biết họ có bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D) độc lập, đây là một con số rất khiêm tốn chưa tương xứng với yêu cầu thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo của SMEs hiện nay. Tuy nhiên, con số này đã cao gần gấp đôi so với năm 2014 là 8,5% SME có bộ phận nghiên cứu, phát triển(2).
Ngoài ra, các doanh nghiệp chủ yếu sử dụng nghiên cứu, phát triển linh hoạt (không có bộ phận cố định mà thực hiện theo nhiệm vụ cụ thể). Cơ chế vận hành R&D chiếm tỷ lệ cao nhất là chủ động nghiên cứu và đề xuất cải tiến sản phẩm (60%). Ngoài ra, 8% doanh nghiệp hoạt động R&D theo nhiệm vụ được lãnh đạo giao; 4% hướng tới việc xây dựng chương trình đào tạo nội bộ; 28% doanh nghiệp vận hành theo các cơ chế khác.
Như vậy, kết quả trên cho thấy, tỷ lệ SMEs có bộ phận R&D độc lập còn khá thấp. Nhiều SMEs chưa thực sự chú trọng đầu tư vào hoạt động R&D một cách quy mô, bài bản và chuyên nghiệp. Phần lớn các SMEs có bộ phận này chủ yếu hoạt động theo hướng chủ động cải tiến sản phẩm và còn hạn chế về phạm vi hoạt động.
Đánh giá hiệu quả, bảng 5 cho thấy mặc dù nhiều SMEs khẳng định sự tồn tại của hoạt động R&D, song hơn 50% doanh nghiệp cho biết, họ không thể đánh giá hoặc không biết về chất lượng và hiệu quả của R&D đối với 9/14 hoạt động được đề cập. Điều này phản ánh mức độ đầu tư, quan tâm, quản lý và phát triển bộ phận R&D trong nhiều SMEs vẫn chưa được chú trọng đầy đủ.
Tuy nhiên, có 5 nội dung được đánh giá ở mức có hoạt động tương đối cao, bao gồm: nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ (63,3%), đổi mới quy trình sản xuất, kinh doanh (46,9%), tăng doanh thu, lợi nhuận (40,8%), xây dựng thương hiệu đặc trưng (34,7%) và đa dạng hóa sản phẩm, mẫu mã (32,7%). Mặc dù những nội dung này được ghi nhận, nhưng mức độ đánh giá về hiệu quả thực tế lại khá thấp, chỉ dao động từ 16,3% đến 30,6%.
Ngoài ra, các hoạt động như mở rộng thị trường trong nước và quốc tế, xây dựng chiến lược phát triển bền vững, thu hút hợp tác và đầu tư và phát triển SMEs thành doanh nghiệp lớn cũng nhận được sự ghi nhận với 26,5%, nhưng tỷ lệ đánh giá hiệu quả những hoạt động này chỉ nằm trong khoảng 8,2% đến 22,4%.
Như vậy, theo đánh giá của SMEs, hoạt động R&D chưa đem lại hiệu quả như mong đợi, ở chỉ báo cao nhất cũng chưa đến 1/3 doanh nghiệp (30,6%) khẳng định là hiệu quả, đem lại ích lợi lớn cho doanh nghiệp. Các chuyên gia cho rằng, do nguồn lực tài chính hạn chế, các SMEs thường không có ngân sách dư cho R&D trong khi chi phí nghiên cứu, thử nghiệm đều rất đặt đỏ, nên SMEs chưa thể đầu tư bài bản, chuyên nghiệp cho hoạt động này.
Bảng 5. Hiệu quả hoạt động nghiên cứu và phát triển trong doanh nghiệp
Đơn vị: % doanh nghiệp
TT | Hoạt động | Tự đánh giá | ||
Có, hoạt động | Có, hiệu quả | Không biết | ||
1 | Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ | 63,3 | 20,4 | 16,3 |
2 | Đổi mới quy trình sản xuất, kinh doanh | 46,9 | 16,3 | 36,8 |
3 | Giảm lao động giản đơn | 18,4 | 20,4 | 61,2 |
4 | Mở rộng thị trường trong nước, quốc tế | 26,5 | 22,4 | 51,1 |
5 | Tăng doanh thu, lợi nhuận | 40,8 | 16,3 | 42,9 |
6 | Xây dựng chiến lược phát triển bền vững | 26,5 | 14,3 | 59,2 |
7 | Hội nhập sản xuất, kinh doanh hiện đại | 20,4 | 14,3 | 65,3 |
8 | Xây dựng thương hiệu đặc trưng riêng | 34,7 | 24,5 | 40,8 |
9 | Phát triển thành doanh nghiệp lớn | 26,5 | 8,2 | 65,3 |
10 | Tham gia trao đổi, mua bán công nghệ | 16,3 | 14,3 | 69,4 |
11 | Đa dạng hóa sản phẩm, mẫu mã sản phẩm | 32,7 | 30,6 | 36,7 |
12 | Thu hút hợp tác, đầu tư | 26,5 | 10,2 | 63,3 |
13 | Hình thành doanh nghiệp khoa học, công nghệ | 10,2 | 8,2 | 81,6 |
14 | Hoạt động khác | 6,1 | 8,2 | 85,7 |
Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát Đề tài ĐTĐLXH.07/22.
Thực tế khi SMEs phải đối mặt khi đầu tư R&D là khó quản lý, dự báo được rủi ro, chịu áp lực cao về thời gian, quy trình nghiên cứu, thử nghiệm cho tới khi có thể sản xuất, đưa ra sản phẩm ra thị trường. Bên cạnh đó, đầu tư R&D chi phí lớn song không phải sáng kiến nào cũng thành công. Nói cách khác là độ trễ giữa đầu tư R&D và lợi ích thu về có thể khá lâu, điều mà nhiều SMEs khó chấp nhận.
Ba là, một số khó khăn trong đầu tư, phát triển khoa học, công nghệ
Tìm hiểu về những khó khăn của SMEs trong mẫu nghiên cứu cho thấy có 92,1% doanh nghiệp đã từng gặp một trong những khó khăn trong quá trình đầu tư phát triển khoa học, công nghệ. Trong đó, những khó khăn phổ biến nhất là: thiếu vốn, chi phí cao (55,6%); thiếu kinh phí đầu tư vào công nghệ mới (51,8%); thiếu nhân lực, đội ngũ khoa học, công nghệ chất lượng (46,1%); và thiếu bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D) (36,6%). Ngoài ra, một số khó khăn khác mà các doanh nghiệp gặp phải là: rủi ro do công nghệ lỗi thời (28,5%); thiếu tri thức quản lý khoa học, công nghệ (26,8%); đầu tư công nghệ không đủ để tạo ra lợi nhuận (25%); và nhập công nghệ nhưng không đạt kỳ vọng về sản phẩm (11,3%) (theo Bảng 6).
Xét theo quy mô doanh nghiệp, nhóm các doanh nghiệp siêu nhỏ có tỷ lệ đối mặt với tình trạng thiếu vốn, thiếu kinh phí đầu tư công nghệ mới và đầu tư công nghệ không đủ tạo ra lợi nhuận khá cao, trong khi khó khăn này có xu hướng giảm dần ở các doanh nghiệp quy mô lớn hơn.
Bảng 6. Tương quan khó khăn doanh nghiệp gặp phải trong đầu tư, phát triển khoa học, công nghệ với quy mô doanh nghiệp
Đơn vị: % doanh nghiệp
TT | Khó khăn | Chung | Quy mô doanh nghiệp | ||
Doanh nghiệp siêu nhỏ | Doanh nghiệp nhỏ | Doanh nghiệp vừa | |||
1 | Thiếu vốn, chi phí nhiều* | 55,6 | 72,0 | 56,7 | 47,4 |
2 | Thiếu kinh phí đầu tư công nghệ mới** | 51,8 | 70,0 | 53,3 | 42,1 |
3 | Rủi ro vì công nghệ lỗi thời nhanh | 28,5 | 28,0 | 30,8 | 26,3 |
4 | Đầu tư không đủ tạo lợi nhuận* | 25,0 | 32,0 | 30,8 | 15,8 |
5 | Không tạo ra sản phẩm như ý | 11,3 | 10,0 | 15,0 | 7,9 |
6 | Thiếu bộ phận nghiên cứu, phát triển | 36,6 | 36,0 | 30,8 | 43,0 |
7 | Thiếu nhân lực khoa học, công nghệ có chất lượng | 46,1 | 52,0 | 44,2 | 45,6 |
8 | Thiếu tri thức quản lý khoa học, công nghệ | 26,8 | 34,0 | 24,2 | 26,3 |
9 | Ý kiến khác | 3,2 | 2,0 | 4,2 | 2,6 |
(**P<0,01; *P<0,05), Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát Đề tài ĐTĐLXH.07/22.
Kết quả khảo sát phản ánh tình trạng khá phổ biến trong cộng đồng SMEs là gặp nhiều khó khăn trong việc đầu tư và phát triển khoa học, công nghệ. Thiếu vốn và kinh phí đầu tư là những rào cản lớn nhất, khiến cho quá trình áp dụng và đổi mới công nghệ gặp nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó, thiếu nhân lực chất lượng và bộ phận R&D cũng là những yếu tố cản trở khả năng phát triển công nghệ một cách bền vững. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hỗ trợ doanh nghiệp về nguồn vốn, đào tạo nhân lực, cũng như các chính sách phát triển khoa học, công nghệ để giúp tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số.
2.3. Một số giải pháp
Để khắc phục khó khăn, bất cập, đồng thời thúc đẩy các hoạt động khoa học, công nghệ trong SMEs Việt Nam, cần hướng đến xây dựng một chiến lược phát triển toàn diện, trong đó tập trung vào hệ thống giải pháp đồng bộ, có sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức trung gian:
Giải pháp từ phía Nhà nước: Nhà nước cần thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW thành các chính sách và cơ chế cụ thể, trong đó cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chính sách hỗ trợ tài chính, vay vốn, ưu đãi thuế, ưu tiên các doanh nghiệp đầu tư khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo…; tiếp tục chỉ đạo, đầu tư, phát triển các mạng lưới cơ sở hạ tầng công nghệ dùng chung về nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học hướng đến ứng dụng, phát triển công nghệ mới, có cơ chế chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học cho các doanh nghiệp; có các chính sách ưu tiên, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, phát triển công nghệ AI, hình thành các bộ phận nghiên cứu, phát triển trong doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần chú trọng xây dựng các chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ trẻ, nguồn nhân lực chất lượng cao bổ sung cho thị trường lao động. Tiếp tục đổi mới toàn diện giáo dục, đào tạo gắn với thị trường lao động và nhu cầu tuyển dụng, sử dụng lao động khoa học, công nghệ của doanh nghiệp. Các chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ trẻ cần chú trọng việc thông qua đội ngũ này để tăng cường chuyển giao công nghệ, chuyển đổi số, nâng cao nhận thức, hành động của doanh nghiệp về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong SMEs.
Giải pháp từ phía SMEs: các doanh nghiệp cần năng cao nhận thức về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, coi đây là hoạt động sống còn của doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch đầu tư, ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ một cách toàn diện, gắn với sản xuất, kinh doanh hiệu quả. Doanh nghiệp cần tìm kiếm, mở rộng các nguồn vốn đầu tư cho khoa học, công nghệ như vốn đầu tư từ các Quỹ khoa học, công nghệ quốc gia và nguồn vốn ODA, đồng thời xây dựng bộ máy nghiên cứu, phát triển chuyên nghiệp, bài bản, có chiến lược xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ.
Bên cạnh đó, để khắc phục khó khăn về nguồn lực cho khoa học, công nghệ, doanh nghiệp cần tăng cường liên kết và hợp tác với các viện nghiên cứu, các trường đại học trong các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất, kinh doanh, tăng cường chuyển giao công nghệ dưới nhiều hình thức để đem lại hiệu quả thiết thực, giảm chi phí. Cần xây dựng môi trường văn hóa khoa học, công nghệ trong doanh nghiệp hướng tới các tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế. Các SMEs cũng cần mở rộng sự liên kết, phối hợp với các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn để tham gia vào chuỗi cung ứng, các hệ sinh thái trong sản xuất, kinh doanh, qua đó nhận được sự hỗ trợ, chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp lớn. Cần xây dựng các diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo tích cực, tăng cường cơ chế thu hút, sử dụng và đãi ngộ nhà khoa học về làm việc tại doanh nghiệp.
Giải pháp từ các tổ chức xã hội, khoa học công nghệ: Thiết lập và phát triển các mạng lưới trung gian hỗ trợ SMEs, đặc biệt là các viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức khoa học, công nghệ cần hướng các hoạt động nhiều hơn vào doanh nghiệp. Các tổ chức cần xây dựng các đội ngũ chuyên gia cung cấp các dịch vụ tư vấn và đào tạo; xây dựng mạng lưới, nền tảng công nghệ quốc gia giúp SMEs kết nối với các nhà đầu tư, các chuyên gia, cộng đồng SMEs nhằm hỗ trợ, chia sẻ các thông tin, kinh nghiệm phát triển khoa học, công nghệ…
3. Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy, phần lớn SMEs của Việt Nam hiện nay rất coi trọng vai trò của khoa học, công nghệ và đã có những ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ nhất định trong sản xuất, kinh doanh, tuy nhiên còn khá nhiều khó khăn, hạn chế như: thiếu vốn, thiếu kinh phí đầu tư công nghệ mới, thiếu nhân lực khoa học, công nghệ chất lượng và thiếu bộ phận R&D được đầu tư chuyên nghiệp, bài bản.
Các SMEs cũng chưa chú trọng nhiều tới việc đầu tư, áp dụng các hệ thống quản trị và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn khoa học, công nghệ, điều này tạo ra khó khăn trong việc hội nhập trong các chuỗi cung ứng với doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp quốc tế. Những rào cản này cũng trở nên khó khăn hơn đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ cũng như doanh nghiệp mới ra nhập thị trường.
Để thúc đẩy các SME đầu tư và phát triển khoa học, công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ, đột phá về cơ chế chính sách, cũng như phát huy tối đa nội lực của SMEs, đặc biệt là các giải pháp phối hợp liên kết giữa Nhà nước, SMEs và các tổ chức trung gian như trường đại học, viện nghiên cứu, các quỹ khoa học công nghệ, các hiệp hội doanh nghiệp…
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khoa học, công nghệ đã trở thành yêu cầu bắt buộc để SMEs tồn tại và phát triển. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ trên cơ sở lợi ích chung giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức hỗ trợ là giải pháp quan trọng để tạo động lực giúp SMEs vượt qua khó khăn, hạn chế, từng bước nâng cao trình độ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững, góp phần thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng, các chiến lược, mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045.
_________________
Ngày nhận bài: 5-10-2025; Ngày bình duyệt: 8-10-2025; Ngày duyệt đăng: 10-10-2025.
Email tác giả: hanvulinh@gmail.com
(1) Bộ Kế hoạch Đầu tư: Sách trắng về doanh nghiệp Việt Nam 2024, Nxb Thống kê, 2024.
(2) Nguyễn Thị Bích Liên: “Vai trò của hoạt động R&D nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam”, Tạp chí Công Thương số 2, tháng 2 - 2017.