(LLCT) - Ngày 7-11-2025, tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp Tỉnh ủy Tuyên Quang, Vĩnh Long, UNDP, Đại sứ quán Ireland tại Việt Nam, Hội Xã hội học Việt Nam tổ chức hội nghị tư vấn khoa học "Tăng cường vai trò lãnh đạo của cán bộ nữ trong chính quyền địa phương trong kỷ nguyên mới: Kinh nghiệm từ tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Vĩnh Long". PGS, TS Đoàn Minh Huấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Giám đốc thường trực Học viện dự và chủ trì Hội thảo.
NGUYỄN LAN

Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tiếp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và trực tuyến tại điểm cầu trụ sở Tỉnh ủy Vĩnh Long.
Tham dự Hội nghị có bà Ramla Khalidi, Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam; bà Deirdre Ní Fhallúin, Đại sứ quán Ireland tại Việt Nam; đại diện lãnh đạo các đơn vị, các nhà khoa học, giảng viên trong và ngoài Học viện.
Phát biểu đề dẫn Hội nghị, PGS, TS Đoàn Minh Huấn nhấn mạnh, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về bình đẳng giới như: Luật Bình đẳng giới (năm 2006); Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 2007) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp (năm 2015); Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và 2021–2030; Chỉ thị số 21-CT/TW (năm 2018) của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới; và gần đây là Chương trình hành động “Tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo và quản lý ở các cấp hoạch định chính sách giai đoạn 2021 – 2030” của Thủ tướng chính phủ. Đồng thời, Việt Nam cũng tham gia nhiều công ước quốc tế về bình đẳng giới. Hệ thống văn bản trên không chỉ tạo ra hành lang pháp lý tương đối đầy đủ mà còn đặt ra yêu cầu nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội về vai trò, vị trí của phụ nữ và công tác cán bộ nữ trong bối cảnh hiện nay.
Thời gian qua, công tác phát triển đội ngũ cán bộ nữ nói chung và sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý nói riêng ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Tuy nhiên, sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ, Việt Nam vẫn chưa đạt các chỉ tiêu về tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong khu vực công; tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy và hội đồng nhân dân các cấp có sự gia tăng nhưng còn chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của phụ nữ. Điều đó đã phần nào hạn chế sự đóng góp của cán bộ nữ vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Hội nghị tư vấn: "Tăng cường vai trò lãnh đạo của cán bộ nữ trong chính quyền địa phương trong kỷ nguyên mới: Kinh nghiệm từ tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Vĩnh Long" góp phần đánh giá việc thực hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ nữ nói chung, sự tham gia của cán bộ nữ vào công tác lãnh đạo, quản lý nói riêng; làm rõ ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa địa phương, đặc điểm vùng miền đến sự tham chính của phụ nữ. Qua đó, cung cấp luận cứ cho việc xây dựng báo cáo kiến nghị với Đảng và Nhà nước về tiếp tục đổi mới chính sách đối với công tác cán bộ nữ thời gian tới.
Phát biểu tại Hội nghị, bà Ramla Khalidi cho rằng, trong bối cảnh Việt Nam đang triển khai những cải cách lớn về quản trị nhà nước, tinh gọn đơn vị hành chính, hiện đại hóa hệ thống nhân sự và xây dựng mô hình chính quyền hai cấp, việc tổ chức Hội nghị thể hiện sự quyết tâm kiến tạo một nền hành chính hiệu lực, hiện đại của hệ thống chính trị Việt Nam. UNDP cam kết tiếp tục hỗ trợ các nghiên cứu của Việt Nam trong phát triển năng lực lãnh đạo, hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng và đổi mới sáng tạo, hướng tới một nền quản trị địa phương hiện đại, lấy con người và bình đẳng giới làm trung tâm.
Tại Hội nghị, bà Deirdre Ní Fhallúin nhấn mạnh, những kết quả nghiên cứu tại Tuyên Quang và Vĩnh Long cho thấy chính quyền 2 tỉnh đã chủ động phát hiện nhân tố nữ tiềm năng và tạo điều kiện phát triển có định hướng, xem bình đẳng giới là ưu tiên chính trị, nhờ đó, năng lực, sự tự tin và tầm ảnh hưởng của đội ngũ lãnh đạo nữ tại hai địa phương này được nâng cao rõ rệt. Sự tiến bộ về năng lực, tầm nhìn của lãnh đạo nữ hai địa phương Vĩnh Long và Tuyên Quang là những điểm sáng, kinh nghiệm quý báu cần được đúc rút thành mô hình và nhân rộng tới nhiều địa phương trong cả nước.
Phát biểu tại Hội nghị, GS, TS Nguyễn Hữu Minh, Chủ tịch Hội Xã hội học Việt Nam nêu rõ: Quá trình sắp xếp lại đơn vị hành chính, số đơn vị hành chính cấp tỉnh giảm từ 63 xuống 34, bỏ cấp huyện, số lượng đơn vị hành chính cấp xã giảm từ hơn 10,000 đơn vị xuống còn 3.321 đơn vị, kéo theo việc điều chỉnh nhiều đầu mối và bố trí lại nhân sự. Một số vị trí chủ chốt do nữ đảm nhiệm đã thu hẹp. So với đầu nhiệm kỳ 2020 - 2025, Việt Nam có 9 nữ Bí thư tỉnh ủy và 2 nữ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; sau sáp nhập từ ngày 01-07-2025 còn 3 nữ Bí thư và không còn nữ Chủ tịch tỉnh. Tuy nhiên, từ ngày 30-10-2025, không còn Bí thư tỉnh, thành phố nào là nữ. Tỷ lệ tỉnh có nữ lãnh đạo chủ chốt trong Ủy ban nhân dân cũng giảm từ khoảng 76% năm 2024 xuống còn gần 50% sau sáp nhập. Những thay đổi này cho thấy yêu cầu duy trì và phát triển nguồn cán bộ nữ càng trở nên quan trọng trong bối cảnh tái cấu trúc bộ máy hiện nay.
Tại Hội nghị, các đại biểu tập trung phân tích làm rõ những điều kiện thuận lợi, cơ hội và thách thức, giải pháp thúc đẩy sự tham gia các hoạt động của chính quyền địa phương đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ hiện nay. Các ý kiến phát biểu tại Hội nghị khẳng định, quá trình phát triển kinh tế - xã hội những năm qua đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị. Nhận thức xã hội được nâng lên, cơ hội học tập và tham gia công vụ của phụ nữ rộng mở hơn, qua đó hỗ trợ gia tăng nguồn nhân lực nữ có trình độ cho hệ thống chính quyền. Tuy vậy, từ góc độ thể chế, một số quy định liên quan đến công tác cán bộ nữ vẫn còn hạn chế. Các tiêu chí về đào tạo, luân chuyển, quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ chưa thực sự linh hoạt và chưa phản ánh đầy đủ đặc thù giới. Nhiều chỉ tiêu về cán bộ nữ mang tính định hướng, thiếu cơ chế ràng buộc và biện pháp xử lý khi không đạt mục tiêu. Một số văn bản hướng dẫn còn chậm được ban hành hoặc khó triển khai, khiến cán bộ nữ gặp nhiều thách thức hơn trong việc đáp ứng yêu cầu để được đề bạt, bổ nhiệm. Bên cạnh đó, định kiến giới vẫn tồn tại trong xã hội và trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, tạo ra rào cản vô hình đối với sự phát triển nghề nghiệp của phụ nữ.
Từ đó các đại biểu đề xuất hệ thống giải pháp với từng nhóm chủ thể có vai trò, trách nhiệm trong đẩy mạnh sự tham gia của cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ vào các hoạt động của chính quyền địa phương. Trong đó, các cơ quan trung ương cần tích cực hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, các chính sách cần linh hoạt về đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân chuyển đối với cán bộ nữ, áp các chỉ tiêu mang tính bắt buộc thay vì “phấn đấu”, đưa chỉ tiêu công tác cán bộ nữ là một trong những chỉ tiêu đánh giá cán bộ lãnh đạo cấp ủy; Hội đồng Bầu cử quốc gia cần chủ động theo dõi và giám sát công tác chuẩn bị, bảo đảm cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng được giới thiệu ứng cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026-2031; Bộ Nội vụ cần khẩn trương xây dựng và tạo điều kiện khai thác hệ thống dữ liệu toàn quốc về cán bộ, công chức tạo điều kiện phân tổ về giới phục vụ công tác giám sát thực hiện bình đẳng giới; Ủy ban nhân dân/Sở Nội vụ các địa phương cần chủ động xây dựng kế hoạch hành động chi tiết và đồng bộ ở tất cả các khâu đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, quy hoạch, bổ nhiệm, gắn quy hoạch với kế hoạch đào tạo, luân chuyển thực tiễn, tạo điều kiện để cán bộ nữ rèn luyện năng lực quản lý, điều hành thực tiễn và tạo sự tự tin; Hội Liên hiệp phụ nữ cần tích cực tạo nguồn phát triển đảng và tham mưu giới thiệu cán bộ nữ...
Kết luận Hội nghị, PGS, TS Đoàn Minh Huấn đánh giá cao các phát biểu tham luận, đã tập trung phân tích, làm rõ các chiều cạnh, những cơ hội và thách thức đối với việc tăng cường tham gia của cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ trong chính quyền địa phương. Các ý kiến phân tích làm rõ bối cảnh tình hình mới, sự thay đổi về mô hình gia đình trong thời đại hậu công nghiệp tạo ra tính độc lập, tạo ra không gian và điều kiện phát triển với những cơ hội mới cho phụ nữ tham gia vào hệ thống chính trị. Tuy nhiên, mô hình hệ thống chính trị mới, chuyển đổi số trên mọi lĩnh vực, gia tăng tính tự chủ của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội cũng đặt ra những yêu cầu, thách thức mới đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ trong tham gia hệ thống chính trị, đặc biệt là hệ thống chính quyền địa phương. Các giải pháp được đề xuất tại Hội thảo có tính khả thi trong tăng cường sự tham gia của cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ tham chính ( về cơ cấu, số lượng, chất lượng) và bao quát trên nhiều phương diện, góp phần bảo đảm công bằng về cơ hội, điều kiện (về môi trường, thể chế, chế độ, đào tạo) đối với cán bộ nữ trong tham gia hệ thống chính trị. Các kết quả tại Hội thảo có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng báo cáo kiến nghị về công tác phụ nữ trình Đại hội XIV của Đảng sắp tới.