(LLCT) - Lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, quan điểm, chủ trương về quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc của Đảng từng bước được bổ sung, phát triển, hoàn thiện, thể hiện tập trung trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Những nội dung đó thể hiện sự sáng tạo trong lý luận về đường lối đổi mới nói chung, chiến lược bảo vệ Tổ quốc nói riêng trong tình hình mới. Bài viết trình bày khái quát chủ trương của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong Văn kiện Đại hội XIII và đề xuất vận dụng để thực hiện tốt trong tình hình mới.
TS TRẦN QUỐC DƯƠNG
Viện Xây dựng Đảng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Mở đầu
Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có nhiều đặc điểm mới và đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi phải có tư duy lý luận mới từ mục tiêu, nhiệm vụ đến quan điểm, phương châm chỉ đạo; sức mạnh, lực lượng, phương thức tiến hành, gắn kết với xây dựng CNXH… Tư duy lý luận, quan điểm và chủ trương mới của Đảng thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là kết quả của sự kế thừa quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong nhiều thập kỷ và sự tổng kết thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước. Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc và vận dụng sáng tạo các quan điểm, chủ trương mới của Đảng trong tình hình mới, nhất là trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
2. Chủ trương về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Một là, về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Nhận thức của Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng toàn diện, đầy đủ hơn: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN không chỉ là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Khởi xướng và lãnh đạo mở đầu công cuộc đổi mới, Đại hội VI của Đảng chỉ rõ: “Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chuyên chính vô sản, sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, kết hợp chặt chẽ kinh tế, quốc phòng và an ninh toàn dân, xây dựng hậu phương đất nước một cách toàn diện. Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy và ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu cao. Tổ chức bảo vệ chủ quyền và giữ vững an ninh các tuyến biên giới, vùng trời, vùng biển và hải đảo”(1).
Đại hội XII của Đảng (năm 1991) mở rộng mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ “an ninh chính trị” thành bảo vệ “an ninh quốc gia” và đề cập các nhiệm vụ “sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”(2).
Kế thừa tư duy đổi mới từ các kỳ Đại hội trước và xuất phát từ thực tiễn, Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(3).
Như vậy, nội hàm mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc tại Đại hội XIII của Đảng đã phát triển, mở rộng nội dung bảo đảm an ninh con người. Đây là vấn đề mới, quan trọng trong phát triển nhận thức lý luận của Đảng.
Hai là, về quan điểm, phương châm chỉ đạo bảo vệ Tổ quốc
Quan điểm, phương châm chỉ đạo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của Đảng đã có những bổ sung đầy đủ hơn. Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ vai trò lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; mối quan hệ gắn bó giữa mục tiêu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước; giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng; nắm chắc tình hình, chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến.
Phương châm chỉ đạo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có nhiều điểm mới: Kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên trì giải quyết bất đồng, tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với luật pháp quốc tế; có đối sách phù hợp với từng đối tượng, từng tình huống. Kế thừa tư duy đổi mới từ các kỳ Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu “kiên quyết, kiên trì” trong phương châm chỉ đạo: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”(4). Một phương châm được Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh là: “Xác định “chủ động phòng ngừa” là chính… Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”(6).
Ba là, về sức mạnh, lực lượng bảo vệ Tổ quốc
Nhận thức về sức mạnh, lực lượng bảo vệ Tổ quốc đã có sự phát triển, phù hợp với tình hình mới. Đảng ta đã khẳng định: Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của quốc gia cả về chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, quốc phòng, an ninh, của cả hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy sức mạnh của lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Tất cả các sức mạnh đó được tập hợp lại đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự đồng lòng, thống nhất về quyết tâm và ý chí của toàn dân; trong đó, lấy sức mạnh chính trị, tinh thần làm cốt lõi; đại đoàn kết toàn dân tộc làm động lực chủ yếu, thế trận lòng dân làm nền tảng. Kế thừa tư duy đổi mới từ các kỳ đại hội và hội nghị Trung ương trước, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế”(7) trong bảo vệ Tổ quốc. Để tăng cường sức mạnh quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, Đảng xác định: đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Về xây dựng lực lượng vũ trang, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn, mạnh, tạo điều kiện vững chắc, phấn đấu năm 2030, xây dựng Quân đội, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”(8). Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân bao gồm nhiều yếu tố, trong đó con người là yếu tố quyết định nhất; vũ khí, phương tiện là yếu tố rất quan trọng. Đối với nhân tố con người, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết về bản lĩnh chính trị, lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng, nhân dân và chế độ XHCN. Chủ động, tích cực hiện đại hóa vũ khí, trang bị cho các lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là cho lực lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ động.
Bốn là, về phương thức bảo vệ Tổ quốc
Nhận thức của Đảng về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc đã có những phát triển mới. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, quan điểm của Đảng là sử dụng tổng hợp và kết hợp chặt chẽ các phương thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh phi vũ trang; làm phong phú các hình thức đấu tranh phi vũ trang trong bảo vệ Tổ quốc; kết hợp giữa bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ; nhấn mạnh phương thức đấu tranh phi vũ trang; đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phát triển quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy, quan điểm “tự bảo vệ” trong điều kiện mới. Các yếu tố, nội dung bảo vệ Tổ quốc đều phải được chủ động tiến hành từ sớm, từ trước, duy trì thường xuyên, liên tục, về mọi mặt trong thời bình. Quá trình xây dựng, củng cố, phát triển cũng là quá trình triển khai các biện pháp phòng ngừa, bảo vệ, tự bảo vệ từ trước, từ sớm.
Phương thức đấu tranh phi vũ trang trong tình hình mới có những hình thức, biện pháp diễn ra trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong đó, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa là mũi nhọn, then chốt. Phương thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh phi vũ trang được Đảng xác định là kết hợp, sử dụng linh hoạt và mềm dẻo, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, về mối quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc
Đại hội XIII của Đảng yêu cầu thực hiện mối quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN theo hướng cụ thể, hiệu quả hơn: “Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”(9).
3. Giải pháp vận dụng, thực hiện chủ trương của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Một là, nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò trọng yếu, thường xuyên của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Xác định quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên là định hướng chính trị đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị trong nhiệm vụ củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh để đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời, đây cũng là cơ sở quan trọng để thống nhất nhận thức và hành động trong toàn xã hội, đấu tranh phản bác, chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm hạ thấp vai trò của quốc phòng, an ninh, từ đó âm mưu loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, với lực lượng vũ trang. Trong công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội vẫn được xác định là nhiệm vụ trung tâm, được ưu tiên, nhưng không vì thế mà xem nhẹ nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, quốc phòng, an ninh được củng cố tốt sẽ tạo môi trường hòa bình, ổn định và đó chính là điều kiện, cơ sở vững chắc để phát triển kinh tế - xã hội; ngược lại, kinh tế - xã hội phát triển sẽ tạo điều kiện cần thiết để đầu tư, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh. Các vấn đề đặt ra trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc nảy sinh thường xuyên, nên phải coi quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ thường xuyên, không được lúc nào lơi lỏng.
Hai là, cụ thể hóa và thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong mọi ngành, mọi cấp
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; thể hiện ở tất cả các ngành, các cấp; là công việc của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị và cả xã hội. Trong bối cảnh xung đột vũ trang, an ninh trên thế giới và trong khu vực có nhiều biến động phức tạp; thiên tai, dịch bệnh diễn ra với quy mô lớn, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, an ninh con người cùng với việc xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh không những là đòi hỏi khách quan, mà còn là vô cùng cấp bách. Vì vậy, tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức - theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền - cần nắm vững các quan điểm, chủ trương của Đảng, xây dựng chương trình, kế hoạch củng cố quốc phòng, an ninh, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc một cách cụ thể, thiết thực, tránh hình thức.
Ba là, thực hiện tốt phương châm, phương thức bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện và tình hình mới
Tình hình thực tế đang và tiếp tục diễn biến phức tạp, có thể có những bất trắc khó lường, nên cần thực hiện tốt phương châm mà Đảng đã đề ra là: chú trọng dự báo tình hình, chủ động phòng ngừa diễn biến xấu từ sớm, từ xa; giải quyết các vấn đề phát sinh bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển; trong bất kỳ tình huống nào và với đối tượng nào cũng cần thực hiện tốt phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Bốn là, tích cực, chủ động xây dựng lực lượng, sức mạnh quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc
Cơ bản và quyết định là xây dựng, phát huy sức mạnh của toàn dân. Kế thừa kinh nghiệm trong lịch sử về vai trò của nhân dân, cùng những phát triển nhận thức về vai trò của nhân dân trong các nghị quyết của Đảng, cần phát huy mạnh mẽ dân chủ XHCN với phương châm dựa vào dân, “dân là gốc”, nhân dân là trung tâm, là chủ thể; đồng thời, khơi dậy, phát huy ý chí tự lực, tự cường, truyền thống lịch sử, ý chí kiên cường, bất khuất, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, phát huy cao độ sức mạnh con người Việt Nam, sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, “thế trận lòng dân”, tăng cường đồng thuận xã hội, củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ XHCN, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, củng cố sự đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp qua đó thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; có cơ chế phát huy cao độ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong tuyên truyền, tập hợp, tổ chức, động viên nhân dân; coi trọng ý kiến đóng góp của nhân dân; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước; cảnh giác, chủ động, tích cực đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch và các phần tử xấu; v.v..
Xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của quốc gia trong bảo vệ Tổ quốc. Đảng luôn xác định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của quốc gia, sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam, sức mạnh toàn diện của các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Để có được sức mạnh đó cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, phấn đấu đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng đã đề ra, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, tạo nền tảng vật chất vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đặc biệt, cần phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, coi đó là động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; coi trọng củng cố, phát triển hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, góp phần xây dựng môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. Trong quá trình thực hiện công tác đối ngoại phải coi đối ngoại để phát triển đất nước là trọng tâm, nâng cao vị thế đất nước là quan trọng, bảo vệ đất nước là trọng yếu, đặc biệt coi trọng đối ngoại về văn hóa, khoa học công nghệ, quốc phòng, an ninh.
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực xuất hiện các hình thái, phương thức, loại hình chiến tranh mới, các thế lực thù địch đã và sẽ tiếp tục xuyên tạc, cho rằng đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân là lỗi thời, lạc hậu, vì hiện nay đã có các loại vũ khí hiện đại, công nghệ cao, không thể dùng chiến tranh nhân dân. Thực tiễn đã chứng minh, nếu nước ta xây dựng được một nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh, thì không một thế lực nào có thể đánh bại được. Theo đó, cần xây dựng sức mạnh toàn dân, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, bảo đảm sức mạnh vững chắc ngay trong thời bình, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân ngay khi có chiến tranh, xung đột xảy ra. Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho Quân đội nhân dân, Công an nhân dân thực hiện tốt vai trò là nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
4. Kết luận
Để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cần nắm vững quan điểm, chủ trương mới của Đảng về mục tiêu, nội dung, phương châm, phương pháp, xây dựng lực lượng, sức mạnh… bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trên cơ sở đó, cần cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành các chương trình, kế hoạch vận dụng phù hợp, sáng tạo, đạt hiệu quả cao ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những biến động khó dự báo, cần triệt để phát huy các thuận lợi, cơ hội, vượt qua khó khăn, thách thức, kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ và môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời chủ động chuẩn bị về mọi mặt, ngăn chặn có hiệu quả các nguy cơ xung đột và chiến tranh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
_________________
Ngày nhận bài: 7-11-2024; Ngày bình duyệt: 9-11-2024; Ngày duyệt đăng: 13-11-2024.
Email tác giả: tranquocduong64@gmail.com
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.372.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.148.
(3), (4), (5), (6), (7), (8), (9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.156, 117, 155-156, 156-157, 155-156, 48-49, 157.