(LLCT) - Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, ngoại giao đa phương đóng vai trò quan trọng vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đã tăng cường thiết lập quan hệ với các tổ chức quốc tế, thúc đẩy hợp tác khu vực và toàn cầu, mở rộng quan hệ song phương, từ đó đó đã giúp Việt Nam không ngừng nâng cao vị thế quốc tế; góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Bài viết làm rõ chủ trương, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; đề xuất một số giải pháp phát huy hiệu quả của ngoại giao đa phương trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
TS NGUYỄN VĂN DƯƠNG
Viện Chính trị và Quan hệ quốc tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Mở đầu
“Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” là một nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt trong lịch sử dựng nước và giữ nước, được khẳng định trong các văn kiện của Đảng, thể hiện tư duy chiến lược và sự kế thừa truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước. Quan điểm này nhấn mạnh việc chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột, giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng đất nước.
Để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, đối ngoại nói chung và ngoại giao đa phương nói riêng được xem là một trụ cột ngày càng quan trọng, đóng vai trò then chốt trong việc thiết lập, duy trì và định hình luật chơi, góp phần kiểm soát xung đột, thúc đẩy đồng thuận, cũng như tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro an ninh truyền thống và phi truyền thống. Từ đó, ngoại giao đa phương trở thành công cụ thiết thực để tạo dựng “lá chắn mềm” bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc từ sớm tại các thể chế, cơ chế khu vực, liên khu vực và toàn cầu.
Cục diện thế giới hiện nay đang biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định, với sự đan xen giữa hợp tác và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc ngày càng gay gắt. Vì vậy, các nước vừa và nhỏ, các nước đang phát triển như Việt Nam ngày càng chú trọng thúc đẩy hợp tác tại các thể chế đa phương để bảo vệ lợi ích quốc gia một cách chủ động, linh hoạt và toàn diện.
2. Nội dung
2.1. Chủ trương, đường lối của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là quan điểm mang tính chiến lược mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo kế sách “giữ nước từ khi nước chưa nguy” của ông cha ta trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước. Bằng việc thực thi chính sách “bang giao hòa hiếu”, mềm dẻo, khôn khéo, tránh “họa binh đao”, ngăn chặn chiến tranh mà ông cha ta đã giữ yên được bờ cõi và bản sắc văn hóa dân tộc, tạo môi trường hòa bình để phát triển đất nước.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, quan điểm “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy” tiếp tục được kế thừa và nâng lên một tầm cao mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở toàn dân, toàn quân: “Ngày xưa các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước...”(1); “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải luôn nắm vững chủ động, phải thấy trước và chuẩn bị trước”(2). Những chỉ dẫn ấy đã được vận dụng sáng tạo, trở thành nền tảng để cách mạng giải phóng dân tộc giành thắng lợi, mang lại độc lập cho đất nước, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời truyền cảm hứng, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã kế thừa, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của cha ông và tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước và giữ nước, nâng lên một tầm cao mới, phù hợp với bối cảnh quốc tế hiện nay.
Quan điểm bảo vệ Tổ quốc ngay từ trong thời bình đã được Đảng đề cập tại Nghị quyết số 28/NQ-TW ngày 25-10-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là nghị quyết chuyên đề về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta, trong đó xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế. Nghị quyết khẳng định: giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước. Đối với các tranh chấp, bất đồng với các nước liên quan thì kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế....; chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch...; phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả các nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng; không để xảy ra bạo loạn, lật đổ, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước (3).
Chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội XII của Đảng “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”(4).
Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhấn mạnh: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”(5). Đồng thời, đề ra phương hướng và nhiệm vụ: “Xây dựng nền ngoại giao hiện đại, trong đó chú trọng đẩy mạnh ngoại giao quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa...”(6); “Chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống, tạo vành đai an ninh bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”(7).
Đây là lần đầu tiên, thuật ngữ “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” chính thức được đưa vào Văn kiện Đại hội Đảng, thể hiện bước phát triển mang tính đột phá trong tư duy quốc phòng hiện đại của Việt Nam: từ chủ trương mang tính dự báo và phòng ngừa, đến quan điểm bảo vệ quốc gia chủ động ngay trong thời bình.
Với việc cụ thể hóa bằng các nội dung như “xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi”, “đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của thế lực thù địch” và “xây dựng ngoại giao quốc phòng, an ninh”, Đại hội XIII của Đảng đã tiếp tục phát triển, nâng tầm tư duy bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ ý thức chiến lược thành khuôn khổ hành động, đặt ngoại giao và quốc phòng - an ninh vào vị trí trung tâm trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW, tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 44-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, tiếp tục khẳng định cách tiếp cận này và đặt ra yêu cầu: Triệt để phát huy các thuận lợi, cơ hội, vượt qua khó khăn, thách thức, kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ và môi trường hòa bình, ổn định đất nước; chủ động chuẩn bị đất nước về mọi mặt, ngăn chặn có hiệu quả các nguy cơ xung đột và chiến tranh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa(8).
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24 - 01 - 2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới nhấn mạnh: “Hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng, an ninh sâu rộng, toàn diện và hiệu quả hơn, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, nâng cao tiềm lực và vị thế của đất nước”(9). Việc nhấn mạnh hội nhập sâu rộng về chính trị, quốc phòng, an ninh gắn với mục tiêu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa cho thấy tầm nhìn chiến lược của Đảng đối với hội nhập quốc tế như một công cụ chủ động bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Quan điểm này không chỉ khẳng định vai trò của đối ngoại trong giữ vững hòa bình, ổn định, mà còn đặt nền móng cho một thế trận an ninh đa tầng, tạo vành đai phòng ngừa rủi ro chiến lược từ bên ngoài, đồng thời nâng cao tiềm lực, uy tín và vị thế quốc gia trong trật tự thế giới đang định hình lại.
Ngoại giao đa phương với phương châm chủ động, hợp tác và định hình luật chơi, đóng vai trò then chốt trong việc thiết lập các vành đai an ninh mềm, sớm phát hiện nguy cơ, mở rộng không gian chiến lược, tăng vị thế, uy tín của Việt Nam và thu hút nguồn lực để phát triển đất nước
Tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa không chỉ là sự kế thừa truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc, mà còn phù hợp với Hiến chương của Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và nguyên tắc “cùng chung sống hòa bình”, “xây dựng lòng tin”, “ngoại giao phòng ngừa” của ASEAN.
Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là tư duy chiến lược toàn diện về thời gian và không gian, thể hiện qua việc chủ động phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn từ gốc các nguy cơ xâm phạm chủ quyền, an ninh, ổn định quốc gia. “Sớm” là sớm trong nhận thức, tư duy, cảnh báo, tổ chức lực lượng; còn “xa” là chủ động ứng phó từ bên ngoài biên giới, từ nguyên nhân hình thành nguy cơ. Hai yếu tố này không tách rời mà bổ sung, chuyển hóa lẫn nhau trong tổng thể thế trận bảo vệ Tổ quốc. Nội dung bảo vệ bao trùm cả chủ quyền lãnh thổ, thể chế chính trị, lợi ích quốc gia - dân tộc, an ninh xã hội và môi trường hòa bình để phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. 2. Vai trò của đối ngoại đa phương trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
Ngoại giao đa phương là một trụ cột quan trọng trong hệ thống quan hệ quốc tế hiện đại, đóng vai trò kết nối, điều phối và kiến tạo các khuôn khổ hợp tác toàn cầu. Thông qua các tổ chức quốc tế, diễn đàn khu vực và toàn cầu, ngoại giao đa phương giúp các quốc gia cùng nhau giải quyết những vấn đề vượt khỏi biên giới quốc gia như xung đột, biến đổi khí hậu, khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh, hay an ninh mạng. Đây cũng là công cụ để thúc đẩy xây dựng luật chơi chung, tăng cường minh bạch, bình đẳng và trách nhiệm giữa các chủ thể quốc tế. Ngoài ra, ngoại giao đa phương góp phần nâng cao lòng tin chiến lược, ngăn ngừa xung đột và hỗ trợ phát triển bền vững, thông qua cơ chế tham vấn, đối thoại và hợp tác đa chiều. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự phát triển của ngoại giao đa phương không chỉ phản ánh nhu cầu kết nối giữa các quốc gia mà còn là minh chứng cho việc giải quyết các thách thức toàn cầu cần sự đồng thuận và cam kết chung.
Đối với Việt Nam, ngoại giao đa phương đã được Đảng và Nhà nước xác định là một thành tố then chốt trong tổng thể chính sách đối ngoại quốc gia, đóng vai trò thiết yếu trong tiến trình bảo vệ chủ quyền, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Nền tảng của đường lối này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam mới. Một minh chứng quan trọng là bức thư Người gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc năm 1946, trong đó khẳng định rõ lập trường hợp tác rộng mở của Việt Nam: “Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”(10).
Tư duy đề cao hợp tác đa phương của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng ta kế thừa và phát triển, thể hiện rõ nét qua đường lối đối ngoại ở từng giai đoạn phát triển. Trong thời kỳ đổi mới, tư duy về ngoại giao đa phương ngày càng được khẳng định rõ hơn trong chính sách đối ngoại mang tính nguyên tắc của Việt Nam: độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Tư duy chiến lược này liên tục được Đảng bổ sung, hoàn thiện và nâng tầm qua các kỳ Đại hội Đảng. Nếu tại Đại hội X (năm 2006) và Đại hội XI (năm 2011), Việt Nam nhấn mạnh vai trò “tham gia” các hoạt động đa phương, thì đến Đại hội XII (năm 2016) và Đại hội XIII (năm 2021), chuyển sang “chủ động, tích cực tham gia và đóng góp vào việc xây dựng, định hình thể chế đa phương cũng như trật tự kinh tế - chính trị toàn cầu”. Đồng thời, đề ra nhiệm vụ: “Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc”(11).
Điểm nhấn quan trọng cho sự chuyển biến nhận thức và quan điểm này chính là Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 8-8-2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030, đã bổ sung định hướng “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược”.
Thành tựu ngoại giao đa phương của Việt Nam là kết quả của tầm nhìn chiến lược và nỗ lực bền bỉ. Từ vị thế của một quốc gia từng bị bao vây, cô lập, Việt Nam hiện nay đã là thành viên tích cực trong hầu hết các tổ chức và diễn đàn đa phương quan trọng trên thế giới như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), ASEAN… Đến nay, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó đang thực thi 17 FTA với 65 đối tác, phủ rộng khắp các châu lục, trong đó có hầu hết các quốc gia, các nền kinh tế lớn trên thế giới.
Trên bình diện song phương và đa phương, Việt Nam đã xây dựng quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 13 quốc gia, trong đó có 4 Ủy viên Thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Những bước tiến ấy đồng thời phản ánh sự chuyển mình mạnh mẽ của quốc gia từ một nền kinh tế nghèo nàn trở thành một trong những nền kinh tế năng động tại châu Á, hiện đứng thứ 32 toàn cầu về quy mô kinh tế và được coi là đầu tàu tăng trưởng của khu vực.
Bên cạnh việc phá vỡ thế bao vây, cấm vận, thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu rộng, toàn diện, ngoại giao đa phương đã góp phần không nhỏ vào việc phòng ngừa, đẩy lùi nguy cơ để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Cụ thể:
Thứ nhất, ngoại giao đa phương là tuyến đầu trong nhận thức sớm và chủ động phòng ngừa. Trong nội hàm “bảo vệ từ sớm”, yếu tố sớm trong tư duy, cảnh báo, tổ chức lực lượng là cốt lõi. Ngoại giao đa phương giúp Việt Nam tiếp cận sớm với các thông tin chiến lược, khuynh hướng an ninh, thay đổi cấu trúc quyền lực và tiềm ẩn xung đột trên phạm vi khu vực - toàn cầu. Việc tham gia các tổ chức như ASEAN, Liên hợp quốc, ASEM, ARF, ADMM+… tạo điều kiện để Việt Nam theo dõi, cảnh báo và dự báo sớm các nguy cơ tiềm tàng từ bên ngoài, đồng thời kết nối kịp thời với các cơ chế phối hợp quốc tế nhằm chủ động chuẩn bị ứng phó trong trạng thái hòa bình. Trong nhiệm kỳ Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (2020 - 2021), Việt Nam đã chủ động đề xuất các sáng kiến về an ninh biển, ứng phó đại dịch và nhấn mạnh vai trò của ASEAN trong duy trì hòa bình khu vực, từ đó nâng cao khả năng dự báo, nhận diện và định hình xu hướng quốc tế sớm.
Thứ hai, ngoại giao đa phương mở rộng không gian chiến lược “từ xa”. Khái niệm “xa” bao hàm về không gian địa lý và thời gian dự báo. Ngoại giao đa phương giúp vươn tầm bảo vệ ra bên ngoài lãnh thổ, không đợi đến khi nguy cơ xâm phạm trực tiếp mới hành động. Tham gia các diễn đàn và hiệp định quốc tế đã giúp Việt Nam đấu tranh từ xa - cả về pháp lý, chính trị và dư luận, đồng thời xây dựng vành đai an ninh mềm thông qua mạng lưới đối tác và cam kết đa phương. Ví dụ: Trong vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, Việt Nam đã sử dụng khá hiệu quả các diễn đàn như Hội nghị cấp cao ASEAN, Hội nghị ADMM+, Hội nghị Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) để lên tiếng, yêu cầu thúc đẩy việc tuân thủ pháp lý quốc tế, đặc biệt là Công ước UNCLOS 1982... Điều này tạo ra “lớp rào chắn” bên ngoài biên giới quốc gia, nơi các nguy cơ được hóa giải từ gốc.
Thứ ba, ngoại giao đa phương góp phần triệt tiêu các nhân tố bất lợi từ bên trong và bên ngoài. “Bảo vệ từ sớm, từ xa” không chỉ là ngăn ngừa các mối đe dọa từ bên ngoài mà còn chủ động xử lý các nhân tố tiềm ẩn bất ổn bên trong. Ngoại giao đa phương góp phần thúc đẩy hình ảnh quốc gia có trách nhiệm, mở rộng hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học… từ đó tăng cường nội lực, củng cố lòng tin quốc tế và trong nước, giảm thiểu nguy cơ bất ổn từ mất cân bằng phát triển hay bị cô lập quốc tế. Đây là phương diện vừa phòng ngừa mềm, vừa là thế trận bảo vệ vững chắc về chính trị - xã hội. Việc ký kết và thực thi các hiệp định như EVFTA, CPTPP, RCEP không chỉ mở rộng thị trường xuất khẩu mà còn tạo áp lực cải cách thể chế, nâng cao năng lực quản trị, góp phần triệt tiêu các nguy cơ bất ổn từ bên trong như lạm phát, thất nghiệp hay tụt hậu phát triển.
Thứ tư, ngoại giao đa phương giúp tăng cường pháp lý, chuẩn mực và liên kết - nền tảng bảo vệ quốc gia thời bình. Bằng việc tham gia và thúc đẩy các quy tắc ứng xử, công ước, hiệp định đa phương, ngoại giao đa phương góp phần thiết lập luật chơi minh bạch, công bằng, tạo cơ sở để Việt Nam phòng ngừa rủi ro pháp lý, bảo vệ chủ quyền và lợi ích hợp pháp trong các tranh chấp quốc tế. Các chuẩn mực đa phương cũng là cơ sở để răn đe mềm, ngăn chặn hành động đơn phương, đồng thời huy động được sự đồng thuận quốc tế nếu lợi ích Việt Nam bị đe dọa. Trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam đã thúc đẩy tiến trình xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), đồng thời tham gia xây dựng các Tuyên bố như Tầm nhìn Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của ASEAN (AOIP) - từ đó thiết lập các chuẩn mực mềm để quản lý bất đồng, phòng ngừa xung đột và tạo vị thế pháp lý vững chắc.
Ngoài ra, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam đã chủ động thực hiện ngoại giao vắcxin, tham gia Cơ chế COVAX, vận động song phương và đa phương để tiếp nhận hàng chục triệu liều vắcxin - góp phần bảo vệ xã hội từ sớm, từ xa trước nguy cơ sụp đổ y tế và kinh tế trong và sau đại dịch.
2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ngoại giao đa phương trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại có năng lực chiến lược, am hiểu luật pháp quốc tế và kỹ năng đàm phán đa phương để từ đó Việt Nam có đủ năng lực chủ động, nắm bắt, sẵn sàng tham gia một cách phù hợp và đóng góp tích cực vào các tiến trình xây dựng, định hình các thiết chế đa phương và định chế quản trị khu vực và toàn cầu trong các vấn đề lớn, mới nổi như trí tuệ nhân tạo, môi trường, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, công nghệ, chuỗi cung ứng, phòng, chống tội phạm mạng, tội phạm xuyên quốc gia.
Hai là, chủ động tham gia các diễn đàn, hợp tác cơ chế đa phương với các chính đảng và đối ngoại nhân dân, coi trọng đóng góp, xây dựng, định hình các thể chế đa phương chính đảng, thúc đẩy các sáng kiến phù hợp với lợi ích và điều kiện của nước ta.
Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo sớm và xây dựng kịch bản đa tầng đối với các nguy cơ an ninh. Trong bối cảnh các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống ngày càng đan xen, công tác nghiên cứu chiến lược và dự báo sớm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việt Nam đang đứng trước nhiều nguy cơ tiềm ẩn, từ biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh mạng, đến cạnh tranh địa - chiến lược giữa các nước lớn, những biến động về năng lượng, lương thực, chuỗi cung ứng toàn cầu. Việc nắm bắt sớm xu hướng và xây dựng kịch bản đối phó không chỉ giúp giảm thiểu thiệt hại mà còn tạo dư địa chính sách để hành động chủ động, kịp thời.
Bốn là, nâng cao vai trò của các cơ quan đại diện Việt Nam tại các tổ chức đa phương trong việc thông tin, đề xuất chính sách, bảo vệ lập trường quốc gia. Các cơ quan đại diện Việt Nam tại các tổ chức đa phương không chỉ là cầu nối giữa Việt Nam với cộng đồng quốc tế mà còn là chủ thể chủ động trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia, phản ánh tiếng nói, hình ảnh và lập trường của Việt Nam trong các vấn đề toàn cầu. Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng và các diễn đàn đa phương trở thành nơi tranh thủ ảnh hưởng chiến lược, việc nâng cao năng lực và vai trò của các cơ quan đại diện là một yêu cầu cấp thiết.
Trước hết, các cơ quan này cần phát huy tốt hơn vai trò là cánh tay nối dài của Đảng và Nhà nước thông qua việc cập nhật, phân tích và dự báo chính xác các xu hướng chính sách toàn cầu, giúp Trung ương nắm bắt kịp thời để xây dựng quan điểm và hành động phù hợp. Điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ ngoại giao không chỉ giỏi nghiệp vụ mà còn am hiểu chuyên sâu từng lĩnh vực cụ thể như môi trường, nhân quyền, thương mại, an ninh mạng, phát triển bền vững…
Bên cạnh đó, cơ quan đại diện phải đóng vai trò là “trung tâm kiến tạo chính sách”, tức không chỉ phản ánh tình hình mà cần chủ động đề xuất sáng kiến, định hình nội dung nghị sự đa phương, thúc đẩy các cơ chế hợp tác có lợi cho Việt Nam. Đây là bước chuyển từ “tham gia” sang “chủ động phát huy vai trò” - một bước tiến lớn trong tư duy đối ngoại của Việt Nam.
Để làm được điều này, cần tăng cường cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan đại diện và các bộ ngành trong nước, nhằm bảo đảm sự thống nhất và hỗ trợ lẫn nhau trong việc xử lý các vấn đề quốc tế phức tạp. Đồng thời, cần xây dựng cơ sở dữ liệu và nền tảng phân tích chính sách hiện đại, liên thông giữa các cơ quan chức năng và đại diện ngoại giao để hỗ trợ việc ra quyết định nhanh chóng và chính xác.
Năm là, tăng cường liên kết giữa ngoại giao nhà nước, đối ngoại đảng, đối ngoại nhân dân và ngoại giao nghị viện trong môi trường đa phương. Mỗi kênh ngoại giao có đặc thù, thế mạnh và phạm vi ảnh hưởng riêng: ngoại giao nhà nước mang tính chính thức, đại diện quốc gia; đối ngoại đảng có tính chiến lược, định hướng lâu dài, nhất là với các đảng cầm quyền trên thế giới; đối ngoại nhân dân tạo dựng lòng tin từ cơ sở, thúc đẩy kết nối xã hội và hình ảnh quốc gia mềm mại hơn; còn ngoại giao nghị viện góp phần thể hiện quan điểm nhất quán trong các cơ chế lập pháp quốc tế.
Sự phối hợp hiệu quả giữa các kênh ngoại giao này sẽ giúp Việt Nam không chỉ bảo vệ được lợi ích cốt lõi trong các vấn đề trọng yếu (Biển Đông, nhân quyền, biến đổi khí hậu…) mà còn lan tỏa được giá trị, hình ảnh của một Việt Nam chủ động, đáng tin cậy và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việc phối hợp còn giúp hạn chế các khoảng trống thông tin, tránh mâu thuẫn trong thông điệp đối ngoại và tăng cường độ phủ của Việt Nam trên các diễn đàn toàn cầu.
3. Kết luận
Trong bối cảnh thế giới ngày càng phức tạp, cạnh tranh chiến lược gia tăng và các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng lan rộng, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược, quyết sách đúng đắn của Đảng, là sự kế thừa tinh hoa về tư tưởng của các thế hệ trước đây, hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới. Trong hệ thống các công cụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, ngoại giao đa phương với phương châm chủ động, hợp tác và định hình luật chơi, đóng vai trò then chốt trong việc thiết lập các vành đai an ninh mềm, sớm phát hiện nguy cơ, mở rộng không gian chiến lược, tăng vị thế, uy tín của Việt Nam và thu hút nguồn lực để phát triển đất nước. Để tiếp tục sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong kỷ nguyên phát triển mới; ngoại giao đa phương Việt Nam cần chủ động tham gia, kiến tạo, định hình luật chơi tại các cơ chế đa phương toàn cầu, liên khu vực và khu vực. Đồng thời, thể hiện được sức mạnh Việt Nam, tạo niềm tin chiến lược trong quan hệ quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
_________________
Ngày nhận bài: 8-10-2025; Ngày bình duyệt: 18-10-2025; Ngày duyệt đăng: 24-10-2025.
Email tác giả: nguyenduongqhqt@gmail.com
(1) Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 502.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 552.
(3) Xem Trần Thái Bình: Một số nội dung cơ bản của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, https://tapchiqptd.vn, ngày 10-6-2014.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.149.
(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.331.
(6), (7), (11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.50, 281, 163.
(8) Xem Trần Thái Bình: Những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, https://tapchiqptd.vn, ngày 18-01-2024.
(9) Nghị quyết 153/NQ-CP ngày 31-5-2025 Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24 - 01 - 2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr. 523.