(LLCT) - Trong cấu trúc quản trị hiện đại, pháp luật và chính sách công giữ vai trò then chốt trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Pháp luật không chỉ xác lập khuôn khổ pháp lý để ghi nhận quyền, mà còn là công cụ điều chỉnh, bảo đảm thực thi và tạo lập các cơ chế bảo vệ hiệu quả. Cùng với đó, chính sách công đóng vai trò triển khai cụ thể hóa các quyền này thông qua các biện pháp can thiệp xã hội, phân bổ nguồn lực và thiết kế cơ chế bảo trợ nhằm bảo đảm “không ai bị bỏ lại phía sau” trong tiến trình phát triển bền vững của một quốc gia. Bài viết phân tích cơ sở lý luận về pháp luật và chính sách đối với quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, làm rõ thực trạng pháp luật và cơ chế bảo đảm quyền con người tại Việt Nam với các chuẩn mực quốc tế và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm này ở Việt Nam hiện nay.
TS TRẦN VĂN QUÝ
Viện Nhà nước và pháp luật
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Mở đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam phải đối mặt với nhiều rủi ro mới. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa nhanh và chuyển đổi số tạo cơ hội nhưng cũng làm gia tăng bất bình đẳng và phân hóa xã hội. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và suy thoái môi trường khiến người nghèo, dân tộc thiểu số, lao động phi chính thức, phụ nữ, trẻ em và người khuyết tật dễ bị tổn thương hơn. Khoảng cách trong tiếp cận y tế, giáo dục, an sinh xã hội và công nghệ ngày càng lớn. Cơ chế bảo vệ pháp lý và chính sách xã hội tuy đã được củng cố nhưng vẫn thiếu bao phủ, phân mảnh và khó tiếp cận với nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Để giảm tổn thương, cần hoàn thiện pháp luật theo hướng lấy quyền con người làm trung tâm, mở rộng mạng lưới an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách số, tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm tiếng nói, sự tham gia của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách.
Nhóm xã hội dễ bị tổn thương là những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người và bởi vậy họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác(1).
Pháp luật và chính sách đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Trước hết, pháp luật thiết lập khung quyền cơ bản, ghi nhận và bảo đảm các quyền con người được thụ hưởng bình đẳng, không phân biệt đối xử. Các cam kết quốc tế như Công ước về quyền trẻ em, quyền người khuyết tật, bình đẳng giới được nội luật hóa vào hệ thống pháp luật quốc gia, tạo nền tảng pháp lý thống nhất. Bên cạnh đó, các chính sách xã hội đóng vai trò là biện pháp can thiệp cụ thể nhằm giảm nghèo, bảo đảm an sinh, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và việc làm cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Hệ thống cơ chế bảo vệ và giám sát giúp phát hiện, xử lý vi phạm và bảo đảm thực thi quyền hiệu quả. Một khuôn khổ pháp lý tốt cần đề cao tính khả thi, công bằng và bao trùm, hướng tới mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau” trong tiến trình phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận, pháp lý về thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương
Thứ nhất, lý luận về quyền con người dựa trên tiếp cận quyền để thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương
Để thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương có thể tiếp cận dưới ở nhiều ngành khoa học khác nhau và có nhiều lý thuyết khác nhau, tuy nhiên trong nghiên cứu này sẽ tiếp cận dưới góc độ lý thuyết quyền con người dựa trên tiếp cận quyền để thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Khung lý luận về quyền con người dựa trên tiếp cận quyền đòi hỏi việc bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương trở thành trách nhiệm pháp lý và đạo đức của nhà nước, không phải là sự ban phát hay chính sách phúc lợi đơn thuần.
Khung lý luận về quyền con người dựa trên tiếp cận quyền (Rights-based Approach - RBA) được coi là nền tảng quan trọng trong nghiên cứu và hoạch định chính sách nhằm thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Tiếp cận này xuất phát từ sự kết hợp giữa lý thuyết phát triển con người, coi con người là trung tâm của quá trình phát triển và hệ thống chuẩn mực quốc tế về quyền con người do Liên hợp quốc xác lập. Theo cách tiếp cận này, phát triển không chỉ hướng đến tăng trưởng kinh tế hay đáp ứng nhu cầu vật chất, mà là quá trình thực hiện các quyền pháp lý vốn có của con người, trong đó, nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền đó.
Khác với cách tiếp cận dựa trên nhu cầu chỉ xem người dân là đối tượng thụ hưởng, tiếp cận quyền xác định mọi cá nhân là chủ thể quyền, còn nhà nước và các cơ quan công quyền là chủ thể có nghĩa vụ. Do đó, việc bảo đảm quyền cho các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, những người sống chung với HIV/AIDS, người khuyết tật, người di cư, người thiểu số (dân tộc, chủng tộc, tôn giáo…) không phải là chính sách phúc lợi hay lòng nhân đạo, mà là nghĩa vụ pháp lý và đạo đức của nhà nước.
Khung lý luận này vận hành trên năm nguyên tắc cơ bản của quyền con người: (i) bình đẳng và không phân biệt đối xử; (ii) sự tham gia thực chất của người dân vào quá trình ra quyết định; (iii) trao quyền để cá nhân có năng lực tự khẳng định và thực hiện quyền của mình; (iv) trách nhiệm giải trình của cơ quan công quyền khi không thực thi đầy đủ nghĩa vụ nhân quyền; và (v) tính phổ quát, không thể chia cắt và liên kết lẫn nhau của các quyền con người. Những nguyên tắc này phản ánh tinh thần của các văn kiện quốc tế quan trọng như Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR), Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) hay Công ước về quyền trẻ em (CRC), trong đó các quốc gia thành viên có nghĩa vụ nội luật hóa và thực thi hiệu quả.
Chẳng hạn, nói về bình đẳng không phân biệt đổi xử là nền tảng bảo đảm quyền con người cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Cần phân biệt giữa bình đẳng hình thức, khi pháp luật quy định quyền như nhau cho mọi người và bình đẳng thực chất, đòi hỏi nhà nước chủ động khắc phục những bất lợi mang tính cấu trúc, lịch sử hoặc xã hội để đạt kết quả công bằng.
Bên cạnh bình đẳng về quyền, bình đẳng về cơ hội và kết quả giữ vai trò thiết yếu, thể hiện qua việc bảo đảm quyền tiếp cận y tế, giáo dục, việc làm, pháp luật, thông tin và công lý. Khi có sự chênh lệch cấu trúc, pháp luật và chính sách cần áp dụng biện pháp đặc biệt tạm thời nhằm tạo điều kiện và hỗ trợ nhóm yếu thế đạt được vị thế bình đẳng thực chất.
Trách nhiệm của nhà nước và các chủ thể xã hội là thực thi, giám sát và giải trình việc bảo đảm quyền bình đẳng, tiếp cận của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Bên cạnh khuôn khổ pháp lý tiến bộ, cần có chính sách công khả thi và cơ chế thực thi hiệu quả, gắn với nguồn lực, tổ chức bộ máy và sự tham gia thực chất của cộng đồng. Như vậy, lý luận công bằng và bình đẳng không chỉ là vấn đề pháp lý mà còn là định hướng chính sách nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển bao trùm trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia.
Có thể thấy, tiếp cận quyền vì thế mang ý nghĩa thúc đẩy phát triển bao trùm và công bằng xã hội thực chất, khi chuyển trọng tâm từ “trợ giúp” sang “thực hiện quyền”. Mọi chính sách, chương trình phát triển và an sinh xã hội cần được thiết kế, thực hiện và đánh giá trên cơ sở tiêu chí nhân quyền, đặc biệt thông qua công cụ đánh giá tác động quyền con người.
Tại Việt Nam, tinh thần của tiếp cận này đã được thể hiện trong các văn bản pháp luật như Luật Bình đẳng giới, Luật Người khuyết tật, Luật Trẻ em và các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, phát triển vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, để tiếp cận quyền thực sự trở thành cơ sở xuyên suốt trong hoạch định và thực thi chính sách, cần tiếp tục thể chế hóa đầy đủ các nguyên tắc về tham gia và trách nhiệm giải trình, qua đó bảo đảm mọi cá nhân đều được tôn trọng, bảo vệ và thụ hưởng quyền con người một cách bình đẳng, không bị bỏ lại phía sau.
Thứ hai, các chuẩn mực quốc tế về thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương
Hệ thống chuẩn mực quốc tế về quyền con người đã xác lập khung pháp lý quan trọng cho việc thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm quyền và bình đẳng thực chất của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Hệ thống chuẩn mực quốc tế về quyền con người được hình thành và phát triển sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhằm xác lập khuôn khổ pháp lý toàn cầu bảo vệ phẩm giá, tự do và bình đẳng của con người. Nền tảng của hệ thống này là Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 (UDHR), cùng với hai công ước cơ bản là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR, 1966) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (ICESCR, 1966). Trên cơ sở đó, Liên hợp quốc tiếp tục ban hành nhiều công ước chuyên biệt nhằm bảo vệ những nhóm xã hội dễ bị tổn thương như Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 (CEDAW, 1979), Công ước về quyền trẻ em năm 1989 (CRC, 1989), và Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006 (CRPD, 2006).
Các văn kiện quốc tế này xác định rõ nghĩa vụ pháp lý của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Trọng tâm của các chuẩn mực quốc tế là nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử, coi đây là nền tảng của mọi quyền. Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của Liên hợp quốc (CESCR) đã khẳng định rằng mọi hình thức phân biệt dù trực tiếp hay gián tiếp đều làm suy giảm bản chất phổ quát và không thể chia cắt của quyền con người. Cùng với đó, nguyên tắc bình đẳng thực chất trong cơ hội tiếp cận các quyền cơ bản như giáo dục, y tế, việc làm, an sinh xã hội được xem là nghĩa vụ cốt lõi của nhà nước, phải được thực hiện ngay cả trong điều kiện kinh tế hạn chế(2).
Một điểm tiến bộ của hệ thống chuẩn mực quốc tế là thừa nhận các biện pháp bảo vệ đặc thù cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, nhằm khắc phục bất bình đẳng lịch sử và bảo đảm công bằng thực chất. Chẳng hạn, Công ước về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ cho phép áp dụng các biện pháp đặc biệt tạm thời để thúc đẩy bình đẳng giới(3); trong khi Công ước về quyền của người khuyết tật yêu cầu các quốc gia cung cấp hỗ trợ hợp lý để người khuyết tật có thể tham gia đầy đủ vào đời sống xã hội trên cơ sở bình đẳng. Những biện pháp này phản ánh nguyên tắc công bằng xã hội - coi việc bảo vệ nhóm yếu thế không chỉ là chính sách nhân đạo, mà là nghĩa vụ pháp lý và đạo đức của nhà nước.
Bên cạnh các công ước, Liên hợp quốc và các ủy ban giám sát còn xây dựng nhiều hướng dẫn triển khai và cơ chế giám sát để bảo đảm việc thực thi hiệu quả các quyền. Một trong những công cụ quan trọng do Liên hợp quốc xây dựng nhằm bảo đảm việc thực thi quyền con người trong quá trình phát triển là “Các nguyên tắc hướng dẫn về đánh giá tác động quyền con người” do Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người ban hành năm 2012(4). Bộ nguyên tắc này giúp các quốc gia đánh giá trước tác động của chính sách, chương trình hoặc dự án kinh tế - xã hội đối với quyền con người, từ đó nhận diện và ngăn ngừa các nguy cơ xâm hại quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, đồng thời tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạch định chính sách.
Ngoài ra, các Bình luận chung do các Ủy ban công ước của Liên hợp quốc ban hành là nguồn giải thích có giá trị pháp lý và học thuật quan trọng, cung cấp chuẩn mực cụ thể để đánh giá việc thực hiện nghĩa vụ quốc gia trong lĩnh vực quyền con người. Chẳng hạn, Bình luận chung số 14 của Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (năm 2000) đã xác định rõ nội hàm của quyền được hưởng tiêu chuẩn sức khỏe cao nhất có thể đạt được, nhấn mạnh nghĩa vụ của nhà nước trong việc bảo đảm tiếp cận công bằng với dịch vụ y tế và xử lý các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe(5). Tương tự, Bình luận chung số 7 (năm 1997) của cùng Ủy ban về quyền có nơi ở thích đáng đã nêu rõ các tiêu chí bảo vệ người dân trước những vụ cưỡng chế, trục xuất trái pháp luật, yêu cầu nhà nước phải tham vấn cộng đồng và cung cấp bồi thường thỏa đáng cho người bị ảnh hưởng(6). Các ủy ban công ước còn ban hành bình luận chung và khuyến nghị kết luận sau các phiên đối thoại định kỳ với quốc gia thành viên, yêu cầu điều chỉnh luật, chính sách hoặc tăng cường nguồn lực cho việc thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Đồng thời, cơ chế rà soát định kỳ phổ quát của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc là diễn đàn đối thoại liên quốc gia, nơi các quốc gia tự nguyện báo cáo và tiếp thu khuyến nghị của cộng đồng quốc tế về việc thực thi quyền con người, thúc đẩy cam kết chính trị và chia sẻ kinh nghiệm về bảo đảm quyền con người trong bối cảnh phát triển(7). Đây là cơ chế quan trọng góp phần thúc đẩy tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong bảo vệ nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Thực tiễn quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia đã nội luật hóa các chuẩn mực nhân quyền bằng việc ban hành luật bình đẳng giới, luật về người khuyết tật, luật chống phân biệt đối xử, thiết lập cơ quan nhân quyền quốc gia, hoặc lồng ghép tiêu chí quyền con người trong hoạch định chính sách. Những biện pháp này giúp gắn kết giữa nghĩa vụ quốc tế và trách nhiệm quốc gia, chuyển các nguyên tắc nhân quyền từ tầm khái niệm đạo lý sang nghĩa vụ pháp lý cụ thể.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại khoảng cách giữa cam kết và thực thi, đặc biệt trong việc bảo đảm sự tham gia thực chất của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương vào quá trình xây dựng và giám sát chính sách. Để thu hẹp khoảng cách này, các chuẩn mực quốc tế nhấn mạnh yêu cầu tăng cường minh bạch, trách nhiệm giải trình và trao quyền cho người dân, nhằm bảo đảm rằng mọi cá nhân, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo hay điều kiện xã hội, đều được tôn trọng, bảo vệ và thụ hưởng các quyền con người một cách bình đẳng và trọn vẹn.
Như vậy, chuẩn mực quốc tế về quyền con người không chỉ dừng ở tuyên ngôn hay nguyên tắc chung, mà đã phát triển thành công cụ hướng dẫn thực thi cụ thể, giúp các quốc gia chuyển hóa nghĩa vụ quốc tế thành hành động thực tiễn, đặc biệt trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
2.2. Thực tiễn chính sách, pháp luật Việt Nam về thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách nhằm bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Quá trình nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế về quyền con người đã được thể hiện rõ trong các đạo luật chuyên biệt và chương trình quốc gia có liên quan.
Trước hết, Luật Trẻ em năm 2016 đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng khi quy định rõ ràng các quyền của trẻ em, bao gồm quyền được sống, được bảo vệ khỏi bạo lực, được chăm sóc y tế, giáo dục, vui chơi, phát triển toàn diện và được tham gia vào các vấn đề có liên quan đến mình. Luật Bình đẳng giới năm 2006 xác lập nguyên tắc bình đẳng thực chất giữa nam và nữ, đồng thời đưa ra các biện pháp thúc đẩy để khắc phục khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục. Luật Người khuyết tật năm 2010 lại khẳng định quyền của người khuyết tật được tiếp cận y tế, giáo dục, việc làm, tham gia xã hội và được hỗ trợ phục hồi chức năng, tạo điều kiện hòa nhập cộng đồng.
Việc bảo vệ, thúc đẩy quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam không chỉ là yêu cầu nhân đạo, mà còn là điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững và củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 mở rộng đối tượng được hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí, góp phần nâng cao khả năng tiếp cận công lý cho nhóm yếu thế. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 tiếp tục thể hiện xu hướng nhân quyền khi lần đầu tiên thừa nhận khái niệm “người tiêu dùng dễ bị tổn thương”, đồng thời quy định thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp, tăng trách nhiệm của doanh nghiệp trong cung cấp thông tin và bảo vệ người tiêu dùng. Ngoài ra, các chính sách an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chính sách trợ cấp hộ nghèo và hỗ trợ vùng dân tộc thiểu số cũng được triển khai đồng bộ nhằm củng cố nền tảng bảo vệ xã hội.
Ở cấp độ chính sách, Việt Nam đang triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, cùng nhiều đề án về trợ giúp xã hội, giáo dục nghề nghiệp, hỗ trợ người khuyết tật, phòng chống bạo lực giới. Các chương trình này thể hiện định hướng tiếp cận dựa trên quyền, coi người dân - đặc biệt là nhóm yếu thế - là chủ thể của sự phát triển. Song song với đó, Việt Nam tiếp tục tham gia và thực hiện các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người như Công ước về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR), Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Công ước về quyền trẻ em (CRC), Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD), và các chu kỳ Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc(8).
Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ nêu trên, thực tiễn cho thấy còn tồn tại nhiều khoảng cách giữa quy định pháp luật và hiệu quả thực thi. Trước hết, khái niệm “nhóm xã hội dễ bị tổn thương” chưa được định nghĩa thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Mỗi văn bản luật xác định đối tượng khác nhau, dẫn đến thiếu đồng bộ và có nguy cơ bỏ sót các nhóm thiểu số mới, như người di cư nội địa, người lao động phi chính thức, nhóm LGBTQ+ hay nạn nhân của biến đổi khí hậu. Ngoài ra, một số quyền kinh tế - xã hội tuy được quy định nhưng chưa có cơ chế thi hành hiệu quả do thiếu ngân sách, thiếu tiêu chí giám sát định lượng và chưa xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền.
Thực tiễn cũng chỉ ra những hạn chế về năng lực quản lý, nguồn lực con người và dữ liệu thông tin. Hệ thống thống kê chưa có dữ liệu phân tách (disaggregated data) theo giới, dân tộc, tình trạng khuyết tật, vùng miền để đánh giá chính xác mức độ bất bình đẳng. Nhiều địa phương còn thiếu cán bộ được đào tạo về quyền con người, dẫn đến khó khăn trong việc lồng ghép yếu tố nhân quyền vào quá trình hoạch định chính sách. Cơ chế khiếu nại, khởi kiện hoặc giám sát việc thực thi quyền con người tuy có quy định trong luật, nhưng còn hạn chế về tính tiếp cận, chi phí, thời gian và hiểu biết pháp luật của người dân(9).
Một vấn đề khác là tính tham gia của các nhóm bị ảnh hưởng còn hạn chế. Phần lớn các nhóm dễ bị tổn thương ít có cơ hội trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, chương trình phát triển hoặc giám sát thực hiện. Điều này khiến chính sách có nguy cơ thiếu tính phản ánh thực tế và chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu đặc thù của từng nhóm. Bên cạnh đó, các yếu tố văn hóa, ngôn ngữ, phong tục vùng miền, đặc biệt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chưa được lồng ghép toàn diện trong thiết kế và thực thi chính sách.
Ngoài ra, trong bối cảnh mới, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, chuyển đổi số và toàn cầu hóa đang tạo ra những dạng dễ bị tổn thương mới. Người lao động di cư, nông dân mất đất, phụ nữ trong khu vực phi chính thức hay người cao tuổi trong xã hội số đang phải đối mặt với nguy cơ bị gạt ra ngoài lề phát triển. Điều này đòi hỏi khung pháp luật phải thích ứng nhanh hơn, tích hợp các biện pháp phòng ngừa rủi ro và đánh giá tác động quyền con người đối với mọi chính sách phát triển(10).
Từ góc độ học thuật, có thể thấy Việt Nam đang chuyển dần từ mô hình phúc lợi xã hội truyền thống sang mô hình quản trị nhân quyền hiện đại, trong đó Nhà nước đóng vai trò là chủ thể có nghĩa vụ, còn các nhóm dễ bị tổn thương là chủ thể của quyền. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả thực chất, cần tiếp tục hoàn thiện các yếu tố nền tảng: (i) định nghĩa pháp lý thống nhất về nhóm dễ bị tổn thương; (ii) cơ chế giám sát, báo cáo định kỳ về thực hiện quyền con người; (iii) tăng cường trách nhiệm giải trình và minh bạch trong thực thi chính sách; (iv) đẩy mạnh giáo dục, truyền thông về quyền con người; và (v) khuyến khích sự tham gia thực chất của xã hội dân sự và các tổ chức đại diện nhóm yếu thế.
2. 3. Giải pháp thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam
Trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, việc thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam cần được triển khai theo hướng đồng bộ, bền vững và dựa trên tiếp cận quyền. Giải pháp cần được thực hiện trên cả ba phương diện: hoàn thiện thể chế pháp luật, tăng cường hiệu quả thực thi và nâng cao năng lực chủ thể quyền.
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật theo hướng xác lập rõ phạm vi và cơ chế thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam. Một hạn chế hiện nay là hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có khái niệm pháp lý thống nhất về “nhóm xã hội dễ bị tổn thương”, dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong xác định đối tượng thụ hưởng chính sách. Do đó, cần nghiên cứu xây dựng định nghĩa mang tính khung trong Luật Nhân quyền (nếu được ban hành trong tương lai) hoặc trong các văn bản có giá trị định hướng như Nghị quyết của Quốc hội, qua đó làm cơ sở thống nhất cho các chính sách chuyên ngành(11). Việc nội luật hóa các tiêu chuẩn quốc tế đặc biệt là Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD), Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), và Công ước quyền trẻ em (CRC) cần được đẩy mạnh, bảo đảm các quy định pháp luật quốc gia tương thích với chuẩn mực nhân quyền quốc tế.
Ngoài ra, cần rà soát các luật chuyên ngành để xác định và sửa đổi những quy định còn chồng chéo hoặc thiếu cơ chế bảo đảm thực thi, như trong lĩnh vực lao động, giáo dục, y tế, tư pháp và an sinh xã hội. Một giải pháp mang tính cấu trúc là ban hành Luật về nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhằm tạo khung pháp lý tổng thể cho việc xác định, bảo vệ và hỗ trợ các nhóm này, tương tự như mô hình luật về công bằng xã hội hoặc bình đẳng cơ hội ở nhiều quốc gia.
Thứ hai, tăng cường cơ chế thực thi và giám sát việc thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam. Pháp luật chỉ có giá trị thực tiễn khi có cơ chế bảo đảm thực thi hiệu quả. Cần phát huy vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật (Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thanh tra, Ủy ban quốc gia về quyền con người đang được đề xuất thành lập), đặc biệt trong việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại và khởi kiện bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Nghị quyết thí điểm cho phép Viện kiểm sát khởi kiện dân sự để bảo vệ lợi ích công hoặc quyền của nhóm dễ bị tổn thương là một bước tiến, song cần thể chế hóa thành cơ chế lâu dài, có hướng dẫn thống nhất và đào tạo chuyên môn cho kiểm sát viên(12).
Bên cạnh đó, cần tăng cường cơ chế giám sát xã hội và minh bạch chính sách. Các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp và cơ quan truyền thông cần được tạo điều kiện tham gia giám sát độc lập việc thực thi quyền con người, qua đó góp phần phát hiện, phản ánh và đề xuất sửa đổi chính sách. Việc thiết lập hệ thống dữ liệu phân tách theo giới, dân tộc, độ tuổi, tình trạng khuyết tật, khu vực cư trú... là cần thiết để đánh giá chính xác tình hình bất bình đẳng và hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng(13).
Thứ ba, phát triển chính sách xã hội toàn diện và bao trùm trong thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam
Cần chuyển từ cách tiếp cận “phúc lợi” sang tiếp cận “trao quyền” cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Chính sách hỗ trợ nên được thiết kế theo hướng tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ công, thị trường lao động, giáo dục và công nghệ, thay vì chỉ dừng ở hỗ trợ tài chính ngắn hạn. Ví dụ, trong lĩnh vực lao động - việc làm, cần mở rộng chương trình đào tạo nghề phù hợp cho người khuyết tật, thanh niên dân tộc thiểu số, phụ nữ nông thôn, kết hợp với chính sách khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động thuộc các nhóm xã hội dễ bị tổn thương(14).
Chính sách về y tế và giáo dục cần được điều chỉnh để giảm chi phí và nâng cao khả năng tiếp cận, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Mô hình “giáo dục hòa nhập” cho trẻ khuyết tật, “chăm sóc sức khỏe sinh sản toàn diện” cho phụ nữ và vị thành niên, hay “dịch vụ pháp lý lưu động” cho người dân vùng khó khăn cần được mở rộng và thể chế hóa thành chính sách thường xuyên.
Thứ tư, nâng cao năng lực và nhận thức quyền con người nhằm thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam
Một trong những rào cản lớn hiện nay là thiếu hiểu biết của cả cán bộ quản lý và người dân về quyền con người. Cần tăng cường giáo dục pháp luật và quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân, đồng thời tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ ở các cấp chính quyền, đặc biệt cấp cơ sở. Các nhóm yếu thế cũng cần được trang bị kỹ năng nhận diện, bảo vệ và thực thi quyền của mình, thông qua hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý, mạng lưới xã hội dân sự hoặc mô hình cộng đồng tự quản(15).
Thứ năm, thúc đẩy hợp tác quốc tế và học hỏi kinh nghiệm thúc đẩy, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam
Việt Nam cần tiếp tục tham gia tích cực vào các cơ chế nhân quyền của Liên hợp quốc, thực hiện nghiêm túc các khuyến nghị trong Chu kỳ Rà soát định kỳ phổ quát (UPR), đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ các tổ chức quốc tế như UNDP, UNICEF, ILO, và các đối tác phát triển song phương. Học hỏi mô hình đánh giá tác động nhân quyền (Human Rights Impact Assessment - HRIA) của OHCHR (2012) sẽ giúp Việt Nam phòng ngừa rủi ro xâm hại quyền của nhóm dễ bị tổn thương trước khi ban hành chính sách kinh tế - xã hội.
3. Kết luận
Tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người là quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Việc bảo vệ, thúc đẩy quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam không chỉ là yêu cầu nhân đạo, mà còn là điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững và củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Việc bảo đảm quyền con người nói chung và quyền cho các nhóm yếu thế nói riêng đòi hỏi cần có những chính sách, pháp luật và biện pháp hỗ trợ cụ thể nhằm tạo điều kiện công bằng cho mọi người dân. Vấn đề bảo đảm quyền con người bằng pháp luật cho các nhóm yếu thế không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà đòi hỏi sự tham gia của toàn xã hội. Với việc tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và sự chung tay của cộng đồng sẽ giúp Việt Nam thực hiện ngày càng tốt hơn việc bảo vệ và tôn trọng quyền con người, hướng tới một xã hội công bằng và tiến bộ.
_________________
Ngày nhận bài: 24-10-2025; Ngày bình duyệt: 26-10-2025; Ngày duyệt đăng: 29-10-2025.
Email tác giả: tvquy1002@gmail.com
(1) Đại học quốc gia Hà Nội: Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb Lao động - Xã hội, 2011.
(2) CESCR, General Comment No. 20: Non-discrimination in economic, social and cultural rights. United Nations - Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa Liên hợp quốc (2009). Bình luận chung số 20: Không phân biệt đối xử trong việc thụ hưởng các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
(3) Ủy ban CEDAW của Liên hợp quốc (2004): Khuyến nghị chung số 25 về các biện pháp đặc biệt tạm thời.
(4) Guiding Principles on Human Rights Impact Assessment của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc (OHCHR, 2012)
(5) CESCR, General Comment No. 14 về quyền được hưởng sức khỏe (CESCR, 2000).
(6) CESCR, General Comment No. 7 về trục xuất cưỡng bức (1997).
(7) UN Human Rights Council: Universal Periodic Review: Overview of the mechanism. Geneva: United Nations - Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc: Báo cáo tổng quan về cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát, Geneva, Liên hợp quốc, 2022.
(8) UN Human Rights Council: Report of the Working Group on the Universal Periodic Review: Viet Nam (A/HRC/49/6), Geneva, United Nations, 2022.
(9) Bộ Tư pháp: Báo cáo công tác trợ giúp pháp lý năm 2022-2023, Hà Nội, 2023.
(10) OHCHR: Guiding Principles on Human Rights Impact Assessment, Geneva, United Nations, 2012.
(11) Nguyễn Thu Hà: Xây dựng khung pháp lý thống nhất về nhóm xã hội dễ bị tổn thương ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 4-2023, tr. 21-30.
(12) Lê Hải Minh: Cơ chế bảo vệ quyền của nhóm yếu thế trong pháp luật Việt Nam hiện nay. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6 - 2024, tr.45-55.
(13) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Báo cáo quốc gia về thực hiện quyền của người khuyết tật giai đoạn 2015- 2022, Hà Nội, 2023.
(14) ILO: Promoting Decent Work for Vulnerable Groups in Vietnam, Geneva, International Labour Organization, 2021.
(15) Trần Thị Thu: Giáo dục quyền con người trong cộng đồng: Kinh nghiệm từ các chương trình trợ giúp pháp lý ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 3-2022, tr. 60-70.