(LLCT) - Thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tư nhân Đảng chủ trương phát triển kinh tế tư nhân. Đó là chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu thế khách quan. Trong thời gian qua, khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng, khả năng tạo việc làm và mức đóng góp vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế tư nhân còn những hạn chế nhất định, đòi hỏi sự điều chỉnh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và thích ứng hiệu quả hơn với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
ThS HOÀNG THỊ VÂN
Trường Đại học Thương mại
1. Mở đầu
Kinh tế tư nhân ở Việt Nam, với sức sống nội tại và tiềm năng phát triển to lớn, ngày càng khẳng định vai trò là một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu hút đầu tư, đồng thời góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khu vực kinh tế này cần vượt qua những hạn chế nội tại để phát huy đầy đủ vai trò và năng lực cạnh tranh. Do đó, việc nghiên cứu, phân tích quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân, đánh giá những đóng góp của khu vực này trong nền kinh tế Việt Nam, đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò của kinh tế tư nhân trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Nội dung
2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân
Quá trình đổi mới ở Việt Nam được khởi xướng từ Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986). Tại Đại hội VI, lần đầu tiên nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân, được chính thức thừa nhận. Đại hội nhấn mạnh: “Phải có chính sách mở đường cho người lao động tự tạo ra việc làm, kích thích mọi người đưa vốn vào sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm tiêu dùng để tích lũy tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội”(1). Đây được xem là giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần huy động và phát huy tối đa các nguồn lực xã hội trong bối cảnh đất nước đang đối mặt với những khó khăn về kinh tế - xã hội giữa những năm 1980.
Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 15-7-1988 của Bộ Chính trị khóa VI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI tiếp tục duy trì đường lối đổi mới, nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển trong những ngành có lợi cho nền kinh tế. Quan điểm này được đánh giá là bước tiến quan trọng đối với kinh tế tư nhân nước ta, là cơ hội cho những bước đột phá mạnh hơn sau này.
Trong Văn kiện Đại hội VII (tháng 6-1991) Đảng đưa ra quan điểm về kinh tế tư nhân, có những nội dung bổ sung, phát triển so với đại hội VI. Đảng có quy định rõ hơn về lĩnh vực kinh tế tư nhân được phép hoạt động: Kinh tế tư nhân được phát triển theo sự quản lý, định hướng và có sự hướng dẫn của Nhà nước.
Quy mô, phạm vi, lĩnh vực hoạt động, cách thức tổ chức của kinh tế tư nhân ngày càng được làm rõ và sâu sắc hơn, như: Kinh tế tư nhân được được quan tâm hơn, phát triển không hạn chế cả về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp Việt Nam không ngăn cấm. Ngoài ra kinh tế tư nhân có thể mở rộng, kết hợp giữa tư nhân trong và ngoài nước, hình thành loại doanh nghiệp thuộc thành phần tư bản nhà nước.
Chính sách kinh tế nhiều thành phần có vai trò quan trọng trong việc giải phóng và phát triển sức sản xuất, là nền tảng đưa đến những thành tựu về kinh tế - xã hội quan trọng trong quá trình đổi mới. Đại hội VIII một lần nữa đã khẳng định rõ tầm quan trọng lâu dài, phát triển của kinh tế tư nhân, từ đó tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp tư nhân yên tâm đầu tư, Nhà nước xây dựng khung pháp lý thuận lợi để các doanh nghiệp tư nhân làm ăn lâu dài tại Việt Nam.
Đại hội X (tháng 4-2006) đánh dấu bước đột phá trong nhận thức của Đảng về kinh tế tư nhân: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”(2). Lần đầu tiên, Đảng chính thức nêu ra và có quy định cụ thể về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân. Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thảo luận và thông qua “Quy định đảng viên làm kinh tế tư nhân”. Quy định này đã cho thấy sự thận trọng của Đảng nhưng cũng đã mở đường cho đảng viên được kinh doanh một cách hợp pháp. Cho phép đảng viên làm kinh doanh, phát triển kinh tế tư nhân chính là phát huy tiềm năng, nâng cao sự chủ động của mọi người dân, từ đó tạo động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết vấn đề việc làm, thu hút đầu tư và góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
Tại Đại hội XI, kinh tế tư nhân được xác định là một trong những động lực to lớn của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam với chủ trương: “Hoàn thiện cơ chế chính sách để phát triển kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy định của pháp luật. Tạo điều kiện thành lập các tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào kinh tế nhà nước…”(3).
Đại hội XII của Đảng chủ trương “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân, để “Kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(4). Với quan điểm và chủ trương trên, kinh tế tư nhân ở Việt Nam được hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển trong tất cả các ngành nghề theo quy định của pháp luật. Đảng đưa ra quan điểm kinh tế tư nhân là “một trong những động lực của nền kinh tế” trong hai kỳ Đại hội XI và XII phản ánh bước tiến mới trong tư duy về kinh tế của Đảng, đặc biệt về vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế của Việt Nam.
Tại Đại hội XIII, vị thế, vai trò của kinh tế tư nhân đã được Đảng ta nâng lên, coi đó là động lực quan trọng của nền kinh tế. Cần tiếp tục hoàn thiện về thể chế, nhất là chỉ đạo tổ chức thực tiễn để thực hiện đúng đường lối, chính sách, phát huy hơn nữa tiềm năng của kinh tế tư nhân, trong đó: “Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60-65%”(5). Đồng thời Đảng ta tiếp tục khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII “Cơ quan quản lý nhà nước thường xuyên đối thoại, lắng nghe ý kiến cộng đồng doanh nghiệp và người dân để có phản ứng chính sách kịp thời, giải quyết ngay và dứt điểm những vướng mắc, bất cập của môi trường đầu tư, kinh doanh, các chính sách an sinh xã hội”(6). Sự quan tâm của Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp yên tâm mở rộng đầu tư, đổi mới công nghệ, hội nhập quốc tế.
Trải qua 40 năm đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân đã không ngừng phát triển, trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào tăng trưởng, tạo việc làm, thu hút nguồn lực đầu tư, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân được khẳng định. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04-5-2025 của Bộ Chính trị, khẳng định “kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân”(7). Đây là bước phát triển mang tính đột phá trong tư duy lý luận về kinh tế của Đảng ta.
Tại Nghị quyết số 68, Bộ Chính trị đã xác định: “Yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới, việc đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động cần có những giải pháp tổng thể, toàn diện, đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân, củng cố niềm tin, tạo khí thế và xung lực mới cho phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là cần thiết và cấp bách”(8). Nghị quyết đặt chỉ tiêu nâng số doanh nghiệp tư nhân lên khoảng 2 triệu vào năm 2030, đóng góp vào GDP khoảng 58%, tạo việc làm cho 85% lực lượng lao động xã hội.
Điểm nổi bật của nghị quyết 68 không chỉ ở tính chất định hướng chính sách, mà còn ở việc tiếp cận trực tiếp vào các vấn đề cốt lõi của thể chế. Cụ thể là, nghị quyết nhấn mạnh yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh bất hợp lý, thúc đẩy số hóa toàn bộ quy trình quản lý nhà nước, đồng thời khẳng định nguyên tắc bảo vệ quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Một trong những khía cạnh mang tính đột phá của nghị quyết là việc xem xét “yếu tố niềm tin” như một loại “tài sản vô hình” đặc biệt quan trọng. Niềm tin của người dân và cộng đồng doanh nghiệp đối với chính sách, niềm tin giữa các cấp quản lý với đội ngũ cán bộ thực thi. Mặc dù khó có thể đo lường bằng các chỉ số định lượng, yếu tố này lại có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả của tiến trình cải cách.
Như vậy, từ năm 1986 đến nay, nhận thức của Đảng về kinh tế tư nhân ngày càng sáng rõ. Đảng đã đưa ra nhiều chủ trương để tạo điều kiện cho thành phần kinh tế tư nhân phát triển trở thành “động lực quan trọng” của nền kinh tế.
2.2. Đóng góp của kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế - xã hội
Trong những năm qua, kinh tế tư nhân đã đóng vai trò quan trọng, thể hiện sự tiên phong trong quá trình phát triển vượt bậc của kinh tế Việt Nam trên một số mặt cơ bản như sau:
Thứ nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc huy động và phát huy hiệu quả các nguồn vốn xã hội cho mục tiêu đầu tư phát triển. Thông qua cơ chế thị trường và các hoạt động sản xuất - kinh doanh đa dạng, khu vực này không chỉ góp phần bổ sung nguồn lực tài chính cho nền kinh tế, mà còn tạo động lực thúc đẩy phân bổ vốn theo hướng hiệu quả hơn, phù hợp với nhu cầu và cơ hội phát triển của từng ngành, lĩnh vực. Nghị quyết số 68 đã khẳng định, sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân nước ta đã từng bước phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những động lực quan trọng góp phần nâng cao đời sống người dân, an sinh xã hội và giải quyết việc làm. Khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng hơn 80% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (9). Các doanh nghiệp tư nhân thường có khả năng linh hoạt và thích ứng với thị trường, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất lao động.
Thứ hai, đóng góp vào tạo động lực thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ trong nhiều lĩnh vực hoạt động sản xuất - kinh doanh. Trong môi trường kinh tế có nhiều biến động, đặc biệt trong thời đại công nghệ số. Đây là một động lực để các doanh nghiệp tư nhân tìm kiếm các giải pháp công nghệ mới, mục đích tối ưu hóa chi phí, tối đa hóa lợi nhuận, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Thứ ba, phát triển kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy quá trình hoàn thiện và vận hành hiệu quả nền kinh tế thị trường. Thông qua việc mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh và đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư, khu vực kinh tế tư nhân góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển bền vững. Nhiều doanh nghiệp tư nhân ngày càng phát triển, khẳng định chỗ đứng và đóng góp lớn vào GDP, đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng nội địa, tham gia tích cực các Hiệp định thương mại tự do (FTA) như EVFTA, CPTPP…
Thứ tư, góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, nâng cao vị thế xuất nhập khẩu của Việt Nam trên bản đồ thế giới. Đầu tư của kinh tế tư nhân mở rộng cả số lượng và chất lượng, tỷ trọng của kinh tế tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội luôn vượt kinh tế nhà nước và kinh tế FDI với những con số ấn tượng. Trong giai đoạn 2010 - 2021, tỷ trọng đầu tư của khu vực tư nhân đã tăng từ 44,6% năm 2010 lên mức 59,5% năm 2021(10).
Thứ năm, một trong những nguồn tạo việc làm lớn nhất, đặc biệt là cho lao động trẻ. Các doanh nghiệp tư nhân phát triển, thu hút nguồn nhân lực, thúc đẩy người lao động nâng cao kỹ năng chuyên môn và kỹ năng mềm, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Các doanh nghiệp tư nhân thường có xu hướng áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại, đổi mới công nghệ, từ đó thúc đẩy người lao động thay đổi tư duy, làm việc hiệu quả hơn và thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường.
2.3. Một số hạn chế của kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Thứ nhất, khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Tư duy và nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong tổng thể nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn chưa thật sự đầy đủ, chưa theo kịp yêu cầu phát triển trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Hệ thống thể chế và pháp luật còn tồn tại những vướng mắc, bất cập; công tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với khu vực này chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ hai, phần lớn các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Trên 90% doanh nghiệp tư nhân hiện nay là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (dưới 10 lao động và vốn thấp), số lượng doanh nghiệp quy mô vừa và lớn còn rất hạn chế. (11)
Thứ ba, đóng góp của kinh tế tư nhân chưa tương xứng vai trò tiên phong, tiềm năng trong quá trình phát triển. Tuy có số lượng lớn, nhưng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế vẫn thấp hơn so với khu vực FDI, giá trị, việc làm, công nghệ thấp dẫn đến việc tạo ra sản phẩm có giá trị cao chưa nhiều.
Thứ tư, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân còn ở mức thấp, thể hiện rõ qua năng suất lao động hạn chế. Hoạt động sản xuất - kinh doanh của nhiều doanh nghiệp tư nhân vẫn dựa chủ yếu vào lao động thủ công, khai thác sức cơ bắp thay vì ứng dụng tri thức và công nghệ hiện đại, do đó khó tạo ra bứt phá về năng suất và hiệu quả kinh tế.
2.4. Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên phát triển mới
Một là, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách và pháp luật, tạo lập môi trường thuận lợi, minh bạch và ổn định cho sự phát triển hiệu quả, bền vững của khu vực kinh tế tư nhân
Việc hoàn thiện khung khổ pháp lý và thể chế kinh tế là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia và thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường định hướng cạnh tranh lành mạnh. Trước hết, cần rà soát và sửa đổi hệ thống pháp luật hiện hành theo hướng bảo đảm tính đồng bộ, minh bạch và khả thi, qua đó tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, đồng thời loại bỏ các rào cản mang tính phân biệt đối xử. Trọng tâm là đơn giản hóa thủ tục hành chính, đặc biệt trong các lĩnh vực có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp. Tăng cường tính minh bạch trong quá trình ban hành và thực thi chính sách,xóa bỏ cơ chế “xin - cho”.
Cần hoàn thiện, đổi mới, chính sách tài chính - tín dụng, mở rộng kênh tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng, phát triển quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ban hành chính sách thuế hợp lý, ổn định, minh bạch, tránh thay đổi bất ngờ gây khó khăn cho doanh nghiệp. Bổ sung, nâng cao hiệu quả chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia vào lĩnh vực công nghệ cao.
Đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng “chính phủ số, chính phủ phục vụ”. Cần cải cách thủ tục hành chính đạt mục tiêu 3 giảm (giảm thời gian, giảm chi phí, giảm giấy tờ). Tăng cường cơ chế giám sát, phản biện chính sách, tạo kênh để hiệp hội doanh nghiệp, cộng đồng tư nhân tham gia đóng góp.
Hoàn thiện thể chế thị trường vốn, thị trường đất đai, bảo đảm vận hành minh bạch, cạnh tranh. Đối với thị trường vốn cần mở rộng kênh huy động và giảm chi phí tiếp cận.
Đối với thị trường đất đai, tiếp tục hoàn thiện đăng ký quyền sử dụng đất điện tử, bản đồ địa chính số, một mã thửa đất quốc gia.
Hai là, đổi mới tư duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động trong phát triển kinh tế tư nhân
Đổi mới tư duy, định vị lại vai trò kinh tế tư nhân. Xây dựng tư duy “đồng kiến tạo giá trị”, doanh nghiệp tư nhân là đối tác phát triển, không chỉ là đối tượng quản lý, thu thuế. Theo nguyên tắc đối xử bình đẳng, tiếp cận đất đai, tín dụng, mua sắm công, thông tin… không phân biệt sở hữu. Chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm thông minh”, quản lý theo rủi ro, niềm tin có điều kiện, giảm cơ chế xin - cho. Tôn trọng quyền tài sản và kinh doanh, xử lý nhanh tranh chấp theo đúng quy định pháp luật.
Thống nhất nhận thức một tiếng nói - một thông điệp. Thông điệp ngắn gọn và nhất quán được khẳng định ở cấp cao là: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng” của nền kinh tế, được đối xử bình đẳng và được bảo vệ. Tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức và định hướng hành động của toàn xã hội đối với phát triển kinh tế tư nhân. Các cơ quan truyền thông, báo chí cần nâng cao chất lượng tuyên truyền về kinh tế tư nhân, chuyển trọng tâm từ cách tiếp cận mang tính hành chính sang hướng truyền cảm hứng, khẳng định vai trò của khu vực này như một lực lượng quan trọng trong sự nghiệp kiến thiết quốc gia.
Ba là, đẩy mạnh khoa học - công nghệ, ứng dụng chuyển đổi số bảo đảm sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân
Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý toàn diện cho chuyển đổi số, phù hợp với bối cảnh công nghệ. rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành, xác định các rào cản pháp lý đối với ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn, AI, blockchain, IoT, điện toán đám mây... Điều chỉnh, bổ sung luật, nghị định, thông tư để tạo điều kiện cho triển khai dịch vụ số, giao dịch điện tử, dữ liệu mở, dữ liệu cá nhân, kinh tế nền tảng... Các lĩnh vực cần ưu tiên: Luật Giao dịch điện tử, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Luật An ninh mạng, Luật Công nghệ thông tin, Luật Viễn thông...
Xây dựng các quy định mới phục vụ chuyển đổi số: Ban hành khung pháp lý thử nghiệm cho công nghệ mới như AI, xe tự hành, y tế số... Luật hóa các khái niệm mới như danh tính số, tài sản số, hợp đồng thông minh, chữ ký số... Quy định về sở hữu và chia sẻ dữ liệu, đặc biệt là dữ liệu công và dữ liệu doanh nghiệp - nhà nước.
Áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế, bao gồm miễn, giảm thuế đối với doanh nghiệp khởi nghiệp và doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Phát huy vai trò của các tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Các tổ chức này cần được công nhận bởi cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo cùng các văn bản hướng dẫn thi hành, qua đó bảo đảm tính pháp lý và hiệu quả hoạt động. Phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo - thực hiện chức năng quản lý quỹ đầu tư khởi nghiệp theo quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bốn là, tăng cường liên kết vùng và tham gia chuỗi giá trị, hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu
Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tăng liên kết vùng, liên kết quốc tế. So với nhiều quốc gia trong khu vực ASEAN, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam được đánh giá là kém cạnh tranh hơn, chưa thực sự đa dạng và chưa tạo ra động lực đủ lớn để hấp dẫn các nhà đầu tư chiến lược. Bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế hỗ trợ, cần chú trọng cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng thuận lợi và minh bạch hơn. Chính phủ cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là đơn giản hóa quy trình và thủ tục hải quan nhằm thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao mức độ hội nhập của Việt Nam vào thị trường quốc tếCần bổ sung các chính sách và cơ chế nhằm hoàn thiện công tác quy hoạch, phát triển hạ tầng liên kết vùng, tăng cường sự phối hợp giữa các địa phương.
Tăng cường hỗ trợ kết nối giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển các chuỗi giá trị toàn cầu.Cần xây dựng và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu toàn diện về doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, nhằm cung cấp thông tin minh bạch, đầy đủ và kịp thời cho các chủ thể liên quan. Điều này có thể được triển khai thông qua việc tăng cường vai trò trung gian của các hiệp hội và tổ chức chuyên ngành.
Đầu tư cơ sở hạ tầng logistics. Việc tăng cường kết nối hạ tầng giao thông - logistics, bao gồm phát triển hệ thống đường cao tốc, cảng biển, cảng hàng không, đường sắt liên vùng và các kho bãi thông minh, đóng vai trò then chốt trong việc giảm chi phí vận chuyển cũng như rút ngắn thời gian giao hàng. Thực tiễn cho thấy, những hạn chế trong hoạt động logistics có thể dẫn đến sự lãng phí về thời gian và tài chính, từ đó làm gia tăng chi phí giao dịch và suy giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năm là, nâng cao đạo đức kinh doanh, xây dựng môi trường kinh doanh bền vững
Xây dựng đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hoá kinh doanh và khát vọng. Việc xây dựng đội ngũ doanh nhân với các phẩm chất trung thực, liêm chính, tinh thần trách nhiệm xã hội và khát vọng đóng góp vào sự phát triển đất nước giàu mạnh, thịnh vượng, hùng cường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong đó, đạo đức và văn hóa kinh doanh cần được xem như nền tảng cốt lõi, đồng thời tinh thần thượng tôn pháp luật phải được đề cao trong toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt, khi các giá trị cốt lõi của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) được tích hợp vào các dự án kinh doanh, doanh nghiệp Việt Nam không chỉ gia tăng lợi ích nội tại mà còn góp phần định hình nhận thức và hành động của cộng đồng doanh nghiệp, người tiêu dùng và các cơ quan quản lý đối với mối quan hệ giữa CSR và phát triển bền vững.
Thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp của cá nhân, doanh nghiệp. Tiếp tục nuôi dưỡng và khuyến khích tinh thần kinh doanh, đổi mới sáng tạo của mọi người dân. Khẩn trương đưa chương trình đào tạo khởi nghiệp kinh doanh vào các cơ sở giáo dục, đào tạo, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh trong học sinh, sinh viên. Phát huy trách nhiệm xã hội, khuyến khích tinh thần kinh doanh trong cộng đồng doanh nghiệp là rất quan trọng để xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh và phát triển bền vững. Với việc đưa các giá trị cốt lõi của trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vào các dự án của mình, các doanh nghiệp Việt Nam góp phần làm thay đổi nhận thức và hành động của cộng đồng doanh nghiệp, người tiêu dùng và các cơ quan quản lý về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và sự phát triển bền vững.
3. Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ở mức cao và ổn định, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, giải quyết các vấn đề xã hội như tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo và phát triển nguồn nhân lực. Sự lớn mạnh của khu vực này đã minh chứng cho tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế của Đảng, thể hiện qua chủ trương coi trọng và khuyến khích sự phát triển của kinh tế tư nhân. Thực tiễn cũng cho thấy, kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng tới mục tiêu đến năm 2045 Việt Nam trở thành quốc gia phát triển. Để thực hiện được trọng trách này, bên cạnh yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế, bản thân khu vực kinh tế tư nhân cũng cần nỗ lực nâng cao năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh cả trong nước và trên thị trường quốc tế, nhằm xứng đáng với vai trò “động lực quan trọng của nền kinh tế”.
_________________
Ngày nhận bài: 22-7-2025; Ngày bình duyệt: 22-8-2025; Ngày quyết định đăng: 29-8-2025.
Email: van.ht@tmu.edu.vn
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.58.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.354.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.209.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.108.
(5), (6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.31, 31, 204.
(7), (8), (9) Bộ Chính trị: Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04-5-2025 về phát triển kinh tế tư nhân.
(10) Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2021, Sđd, tr. 258, 263.
(11) Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2024 https://www.gso.gov.vn/