(LLCT) - Bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia trên Biển Đông là một nhiệm vụ trực tiếp, trọng yếu, thường xuyên trong tổng thể chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ đầu thế kỷ XXI đến nay đã chứng kiến tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, quan điểm về bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên Biển Đông được Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển và lãnh đạo thực hiện.
PGS, TS PHẠM ĐỨC KIÊN
Học viện Chính trị khu vực III
1. Mở đầu
Biển Đông là không gian chiến lược của Tổ quốc, cửa ngõ giao lưu quốc tế, nơi chứa đựng các điều kiện và tiềm năng cho sự phát triển của đất nước; là phên dậu bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” trên hướng biển. Trong thế kỷ XXI, biển, đảo đã và đang trở thành nhân tố, điều kiện quan trọng chi phối và định hình tương lai, xu hướng phát triển của Việt Nam nhằm đưa đất nước trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển. Do đó, vấn đề bảo vệ chủ quyền và các lợi ích chiến lược của quốc gia trên Biển Đông luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm, quan điểm, chủ trương của Đảng về vấn đề này thường xuyên được bổ sung, phát triển đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Bài viết tập trung làm rõ quan điểm của Đảng về vấn đề này từ đầu thế kỷ XXI đến nay.
2. Nội dung
2.1. Nhận định về bối cảnh tình hình và xác lập vị trí, vai trò của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng nhìn nhận “Khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương, sau khủng hoảng tài chính - kinh tế, có khả năng phát triển năng động nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định”(1), đến Đại hội XI (năm 2011), vấn đề biển, đảo đã được Đảng đưa vào đánh giá bối cảnh tình hình: “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đang hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn. Tuy vậy, vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, nhất là tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, tài nguyên…”(2). Đến Đại hội XII (năm 2016), tình hình Biển Đông được Đảng nhìn nhận, đánh giá với mức độ, tính chất chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, phức tạp: “Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp”(3). Trong Văn kiện Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng, bối cảnh tình hình khu vực và Biển Đông được nhìn nhận với tính chất căng thẳng, tranh chấp trên biển có xu hướng diễn biến phức tạp hơn: “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn”(4); “Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều thách thức”(5). Đây là vấn đề được đánh giá trong tổng thể môi trường tác động đến công tác lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển, làm cơ sở để xác định phương thức, biện pháp đấu tranh phù hợp nhằm bảo vệ và giữ vững chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Vai trò, vị thế của biển, đảo đối với phát triển quốc gia ngày càng được Đảng nhìn nhận đầy đủ, toàn diện hơn. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa X Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã nhận định: Khu vực Biển Đông, trong đó vùng biển Việt Nam, có vị trí địa kinh tế và địa chính trị rất quan trọng. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh rõ vị trí, vai trò đó. Với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, ngày nay biển càng có vai trò to lớn hơn đối với sự nghiệp phát triển đất nước(6). Đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, vị trí, tầm quan trọng của biển được xác định trong quan điểm: “Thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(7).
Như vậy, vị trí, tầm quan trọng của biển, đảo đối với quá trình phát triển đất nước ngày càng được củng cố, nâng tầm: Là không gian lãnh thổ tự nhiên với vị trí địa kinh tế, địa chính trị quan trọng, là phần chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian chiến lược của quốc gia trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời, biển, đảo đã trở thành nhân tố, điều kiện then chốt chi phối và định hình tương lai, xu hướng phát triển đất nước thịnh vượng trên cơ sở bảo đảm vững chắc các lợi ích chiến lược của quốc gia.
2.2. Về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển
Trong giai đoạn 2000 - 2006, vấn đề bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển thường được đặt trong một chỉnh thể chung về mục tiêu bảo vệ Tổ quốc: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc”(8). Đến Hội nghị Trung ương 4 khóa X, Đảng xác định: Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh(9). Như vậy, trên cơ sở mục tiêu hàng đầu trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia...” thì mục tiêu quan trọng nhất là bảo vệ vững chắc chủ quyền đối với các vùng biển, hải đảo mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, phù hợp với luật pháp Việt Nam và các quy định, chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Cùng với đó là mục tiêu bảo vệ vững chắc quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia trên Biển Đông, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhà nước và của các tổ chức, cá nhân, nhân dân Việt Nam trên biển trước mọi nguy cơ, đe dọa, xâm lấn từ bên ngoài.
Biển, đảo còn là không gian sinh tồn, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Vì vậy, bảo về chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển cũng chính là bảo vệ các giá trị văn hóa biển, đảo đã được bồi đắp, hình thành trong công cuộc khai phá, làm chủ, xác lập và quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của dân tộc Việt Nam.
Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển được Đảng xác định trên cơ sở đánh giá những nhân tố tác động đến cục diện trên Biển Đông có nguy cơ đe dọa đến chủ quyền quốc gia trên biển. Đồng thời, nhiệm vụ đó cũng được xác lập qua sự đánh giá sức mạnh, nguồn lực nội tại của đất nước và tầm quan trọng của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, sức mạnh, tiềm lực và vị thế của Việt Nam ngày một được củng cố, gia tăng. Vì vậy, nhiệm vụ chiến lược trong bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển được Đảng xác định là: Nhiệm vụ cơ bản, lâu dài và xuyên suốt là xác lập chủ quyền đầy đủ, quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán vùng biển, thềm lục địa, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các quần đảo, đảo khác thuộc chủ quyền của nước ta. Nhiệm vụ trước mắt là phải bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và lợi ích quốc gia trên vùng biển, đảo, duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển(10).
Như vậy, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo đã được Đảng xác định rõ ràng, cụ thể, vừa mang tính định hướng chiến lược lâu dài, vừa đề ra nhiệm vụ cấp thiết cần thực hiện trước mắt. Về lâu dài và xuyên suốt, tiếp tục củng cố cơ sở lịch sử, bằng chứng pháp lý đầy đủ hơn để khẳng định chủ quyền hợp pháp, minh bạch của Việt Nam trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nhằm phục vụ công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Song song với đó là thực hiện các phương thức, biện pháp phù hợp để quản lý, bảo vệ chủ quyền, lợi ích hợp pháp của quốc gia trên các vùng biển, hải đảo. Về nhiệm vụ cấp thiết trước mắt, cần bảo vệ vững chắc, toàn vẹn chủ quyền, lợi ích của đất nước, nhân dân trên các vùng biển, đảo mà Việt Nam đang quản lý, đóng giữ trên thực địa. Đồng thời, cần duy trì môi trường hòa bình, ổn định, mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước, các bên, không để xảy ra tình huống phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
2.3. Về phương châm, sức mạnh bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên Biển Đông
Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, phương châm bảo vệ chủ quyền biển, đảo được Đảng xác định là: “Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển, đảo, vùng trời và giữ được hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”(11). Cùng với đó, tư tưởng chỉ đạo, hành động “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia trên biển, đồng thời chủ động, tích cực giải quyết, xử lý các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển”(12) là phương châm chủ yếu đối với Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên Biển Đông.
Trong kỷ nguyên mới, biển, đảo là một trong những yếu tố tự nhiên, tiền đề quan trọng để dân tộc Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, phát triển vượt bậc.
Trong phương châm bảo vệ chủ quyền biển, đảo, Đảng luôn đặt vấn đề chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển trong tổng thể sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, chủ động đấu tranh thể hiện tinh thần cảnh giác, sớm nhận diện, ngăn ngừa, triệt tiêu những nhân tố bất ổn có nguy cơ đe dọa đến chủ quyền, lãnh thổ quốc gia trên biển. Bởi trong giai đoạn này, “Việt Nam thực hiện công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo trong điều kiện quốc tế và khu vực hiện nay đan xen nhiều thách thức và cơ hội; tình hình Biển Đông tuy chưa xảy ra xung đột vũ trang nhưng đã và đang là “điểm nóng” ngày một trầm trọng và còn nhiều diễn biến rất phức tạp, thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế”(13). Phương châm kiên quyết đấu tranh thể hiện một thái độ, quyết tâm dứt khoát của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên khu vực Biển Đông; kiên định với nguyên tắc “chủ quyền đất nước là thiêng liêng, bất khả xâm phạm; lợi ích quốc gia, dân tộc là tối cao”.
Kiên trì đấu tranh mang hàm ý công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo sẽ còn rất lâu dài, phức tạp, luôn song hành với sự phát triển của đất nước, sự trường tồn của dân tộc. Kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế nhằm thể hiện khát vọng hòa bình, tinh thần hòa hiếu của dân tộc Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp, bất đồng về chủ quyền, lãnh thổ trên Biển Đông; từ đó tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế trong các biện pháp, hành động bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng. Trong bối cảnh tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, khó dự báo; mâu thuẫn, tranh chấp về chủ quyền, lợi ích trên Biển Đông giữa các bên gay gắt, tiềm ẩn nguy cơ xung đột cao, quan điểm xuyên suốt của Đảng là: “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện các biện pháp cần thiết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo”(14). Quan điểm này được kế thừa trên cơ sở nhận thức xuyên suốt của Đảng về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Như vậy, trong nhận thức của Đảng, nguồn lực, sức mạnh để thực hiện sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc phải được thực hiện và xuất phát trước hết từ nguồn lực nội tại của đất nước. Sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc được dựa trên sức mạnh tổng hợp quốc gia, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp một cách phù hợp với sức mạnh, các yếu tố thuận lợi của thời đại. Trên cơ sở đó vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh với tinh thần tự lực, tự cường là chính để quản lý, bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên các vùng biển, đảo.
2.4. Về biện pháp bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển
Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, Đảng đã xác lập một hệ thống các biện pháp chủ yếu nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia trên Biển Đông. Các biện pháp đấu tranh này vừa xuất phát từ những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, vừa kế thừa thành quả, kinh nghiệm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đồng thời, được hoạch định trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế tự nhiên của đất nước trên Biển Đông, gắn với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển.
Một là, Đảng nhấn mạnh, cần “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời,…”(15). Trên cơ sở đó, hình thành cho mỗi người Việt Nam ý thức và hành động đúng đắn đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Hai là, để bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia trên Biển Đông, Đảng chủ trương “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc… chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo”(16). Đặc biệt, cần ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển như hải quân, phòng không - không quân, tác chiến điện tử, trinh sát kỹ thuật, cảnh sát biển, tình báo…, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống. Cùng với đó, xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ biển được chú trọng: “xây dựng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ ở các địa phương trọng điểm”(17) nhằm bảo vệ chủ quyền biển, đảo trước những yêu cầu, thách thức mới đặt ra.
Ba là, phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là một quan điểm nhất quán của Đảng nhằm giữ vững chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội những năm đầu thế kỷ XXI, Đảng đã xác định “Phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược của kinh tế biển kết hợp với bảo vệ vùng biển”(18). Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, vùng biển, ven biển và hải đảo được Đảng xác định “Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển”(19). Việc phát triển mạnh kinh tế biển sẽ tạo ra nguồn lực để đầu tư thích đáng vào nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Vì vậy, cần “Phát triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ quyền biển, đảo”(20).
Bốn là, trên lĩnh vực đối ngoại, “Thực hiện tốt đường lối đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội củng cố hòa bình, ổn định để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là vùng biển, đảo”(21). Để bảo vệ chủ quyền, lợi ích hợp pháp của quốc gia trên biển, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, giảm thiểu các nguy cơ đối đầu, xung đột trên biển, Đảng xác định cần “Kiên trì cùng ASEAN thúc đẩy thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) và tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC)”(22). Bên cạnh đó, cần “Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Kiên trì thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực”(23).
Vấn đề bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển ngày càng đòi hỏi sự quản lý tổng hợp, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước. Vì vậy, Đảng xác định cần “Tổ chức tốt việc xây dựng và quản lý thống nhất quy hoạch không gian biển quốc gia, hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và chuyên ngành về biển, đảo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc”(24). Bên cạnh đó, cần sớm nhận diện, ngăn ngừa những nguy cơ đe dọa đến chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển bằng “Nâng cao chất lượng công tác dự báo tình hình. Kiên quyết giữ vững ổn định chính trị, ổn định kinh tế - xã hội trong mọi tình huống… nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo”(25).
3. Kết luận
Quan điểm của Đảng về bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên Biển Đông từ đầu thế XXI đến nay thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng về vai trò của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong kỷ nguyên mới, biển, đảo là một trong những yếu tố tự nhiên, tiền đề quan trọng để dân tộc Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, phát triển vượt bậc. Trong bối cảnh tình hình Biển Đông luôn có những diễn biến phức tạp, khó lường, cần chú trọng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức của Đảng về bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển trong tình hình mới. Qua đó góp phần thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên Biển Đông; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
_________________
Ngày nhận bài: 14-8-2025; Ngày bình duyệt: 19-8-2025; Ngày duyệt đăng: 22-8-2025.
Email tác giả: kienqlkh@gmail.com
(1), (8), (18) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.14, 40, 95.
(2), (15), (16), (19) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.96, 234, 234, 121.
(3), (11), (20), (22), (23), (25) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.73, 146, 24, 245, 314, 150.
(4), (17), (24) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.107, 277, 125-126.
(5) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.50-51.
(6), (9), (10) Xem ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X (Lưu hành nội bộ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.70, 76, 78-79.
(7) Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tr.02
(12) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr.104-105.
(13) Nguyễn Minh Tâm: Bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế (Lưu hành nội bộ), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2014, tr.169
(14) Luật Biển Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.10.
(21) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.228.