(LLCT) - Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và là động lực, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta luôn coi trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào dân, vì thế đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Bài viết làm rõ thêm quá trình nhận thức của Đảng về dân chủ nói chung và dân chủ cơ sở nói riêng, từ đó xây dựng và triển khai các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, trong đó có Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở.
TS NGUYỄN THANH SƠN
Trường Chính trị tỉnh Sơn La
NGUYỄN THỊ HẠNH
Văn phòng UBND tỉnh Sơn La
1. Mở đầu
Hơn 95 năm lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành độc lập và xây dựng CNXH, Đảng ta luôn coi dân chủ là một nội dung quan trọng trong đường lối cách mạng của mình. Thực hiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực, lại vừa là bản chất, là đặc trưng của xã hội XHCN.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định hai mục tiêu dân tộc và dân chủ gắn bó chặt chẽ với nhau. Làm cách mạng XHCN chính là giải phóng xã hội, giải phóng con người, phát huy quyền làm chủ của nhân dân một cách đầy đủ hơn; xây dựng một xã hội mới dân chủ, công bằng và văn minh. Điều này được thể hiện rõ qua các nhiệm kỳ đại hội của Đảng.
2. Nội dung
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới
Kế thừa quan điểm của các đại hội trước, Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đưa ra quan điểm “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”(1), phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nắm vững nguyên tắc, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những thành tựu văn minh nhân loại. Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN, dân chủ hóa đời sống xã hội đã được Đảng xác định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm, đặc biệt là dân chủ hóa đời sống xã hội từ cơ sở. Bởi vậy, quyền làm chủ của nhân dân đã từng bước được khơi dậy và phát huy.
Trong những năm 1980, đầu những năm 1990, tình hình thế giới và trong nước có nhiều bất lợi cho công cuộc xây dựng CNXH. Giữa bối cảnh đó, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh nhấn mạnh: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ”, “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.
Đại hội VII nêu rõ: “Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”(2).
Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) tiếp tục khẳng định “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp và các hình thức tự quản tại cơ sở”(3).
Để đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, một trong những nhiệm vụ được Hội nghị Trung ương 5 khóa IX đề ra là: “thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền dân chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền người dân giám sát tổ chức và cán bộ cơ sở, thay thế người không đủ tín nhiệm”(4).
Đại hội X của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”(5).
Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (...) Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện của mình”(6).
Đại hội XII của Đảng đề ra một trong những nhiệm vụ tổng quát là: “Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội;...”(7).
Trên cơ sở đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(8).
Thực hiện nghị quyết các Đại hội, Đảng và Nhà nước đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy đảng, chính quyền lắng nghe, tăng cường đối thoại với nhân dân, tôn trọng ý kiến góp ý của nhân dân. Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật.
Như vậy, dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân luôn là nội dung quan trọng và nhất quán trong đường lối cách mạng của Đảng và được phát triển, nâng cao qua các giai đoạn cách mạng. Xây dựng nền dân chủ XHCN, chú trọng dân chủ cơ sở, trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa truyền thống và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Dân chủ gắn liền với dân sinh, dân trí. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
2.2. Quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN (từ năm 1986), dân chủ hóa đời sống xã hội đã được Đảng xác định là một trong những nội dung trọng tâm. Song, trong quá trình thực hiện, ở một số nơi, có lúc đã vi phạm quyền làm chủ của người dân dẫn đến xuất hiện một số “điểm nóng”.
Nhằm kịp thời giải quyết những yếu kém trong phát huy dân chủ cũng như đáp ứng yêu cầu phát triển, xuất phát từ thực tiễn, ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở ra đời sau Chỉ thị 30-CT/TW đó là một bước tiến mới của quá trình mở rộng và phát huy dân chủ ở Việt Nam. Cụ thể hóa Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị, Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; quy chế thực hiện dân chủ ở 3 loại hình cơ sở được xây dựng và thực hiện.
Dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân luôn là nội dung quan trọng và nhất quán trong đường lối cách mạng của Đảng và được phát triển, nâng cao qua các giai đoạn cách mạng.
Trải qua các kỳ Đại hội Đảng, để phù hợp với tình hình thực tiễn, các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ sở được chỉnh sửa, bổ sung như: Nghị định số 29/NĐ-CP ngày 11-5-1998 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 15-5-1998 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 19-6-1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư, Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 28-3-2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở...
Để phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước, Quy chế thực hiện dân chủ ở xã được ban hành theo Nghị định số 79/NĐ-CP ngày 7-7-2003 của Chính phủ, thay thế Nghị định số 29/1998/NĐ-CP. Đây là những văn bản quan trọng của Đảng, Nhà nước về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tinh thần cơ bản của những văn bản này là làm cho dân chủ XHCN được mở rộng, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy.
Để nâng cao hiệu quả việc phát huy dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã, phường, thị trấn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH ngày 20-4-2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Sau 15 năm thực hiện Pháp lệnh 34, trên cơ sở tổng kết những thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm, để tiếp tục thực hiện hiệu quả và nâng cao tính pháp lý của việc phát huy dân chủ ở cơ sở, ngày 10-11-2022 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở được Quốc hội (khóa XV) thông qua tại kỳ họp thứ tư, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-2023.
Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở gồm 6 chương, 91 điều. Luật dành Chương II quy định về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với 35 điều (từ Điều 11 đến Điều 45) quy định những nội dung chính quyền cấp xã phải công khai; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến; những nội dung nhân dân kiểm tra, giám sát; tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng.
Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một chính sách hướng trực tiếp vào bảo vệ quyền và lợi ích của người dân, giúp nhân dân có thêm động lực phát triển kinh tế, văn hóa, tham gia chính trị và hoạt động xã hội vì lợi ích của chính mình. Tinh thần cơ bản của Luật là công khai, dân chủ và minh bạch, nhất là các khoản thu - chi từ đóng góp của nhân dân, bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân, đưa nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” của Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống có hiệu quả và thiết thực.
Ngay sau khi Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở được công bố, Ban chỉ đạo Trung ương về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã có các văn bản chỉ đạo các cấp thực hiện. Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở các tỉnh, thành phố đã tích cực tham mưu cho cấp ủy đảng chỉ đạo việc nghiên cứu, tổ chức hội nghị quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng Luật trên các phương tiện thông tin đại chúng, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của người dân ở cơ sở.
Thực hiện tốt Luật sẽ tạo ra động lực mới thúc đẩy việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an ninh; góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân ngày càng bền chặt hơn.
2.3. Thực trạng của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở tại xã, phường, thị trấn
Trước khi Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 ra đời, các xã, phường, thị trấn thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP và Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH.
Triển khai Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở tại xã, phường, thị trấn thời gian qua đã thu được những thành tựu đáng khích lệ trên các lĩnh vực, cụ thể:
Trên lĩnh vực tư tưởng chính trị: Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã đã làm chuyển biến đáng kể về nhiều mặt theo chiều hướng tích cực cả từ hai phía: phía người dân và phía đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở.
Về phía người dân: Quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở xã đã tạo ra sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ trong nhận thức của người dân về vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện Quy chế dân chủ với việc phát huy quyền làm chủ; nhân dân nhiệt tình, hăng say tham gia sinh hoạt chính trị và thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Về phía đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở: Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã đã tạo ra sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ trong nhận thức của cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện Quy chế dân chủ với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, cán bộ, đảng viên tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, khắc phục tệ quan liêu, lãng phí, tham ô, nhũng nhiễu. Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã đã góp phần to lớn vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm chuyển biến một bước về phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng; củng cố và kiện toàn chính quyền cơ sở về phương thức điều hành, lề lối làm việc theo hướng sát dân và tôn trọng dân.
Trên lĩnh vực kinh tế: Từ khi thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, nhân dân đã được biết, được thông tin các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của chính quyền địa phương về các vấn đề kinh tế, mà trước hết là những vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhân dân.
Với các chủ trương, chính sách hợp lòng dân, hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý điều hành của các cấp chính quyền từ trung ương đến cơ sở; nhân dân phấn khởi đóng góp tiền của, ngày công vào triển khai thực hiện các chương trình, dự án...
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) và Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị, các xã, phường, thị trấn đã kết hợp triển khai Quy chế thực hiện dân chủ ở xã với phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh”, vận động nhân dân bài trừ các hủ tục lạc hậu, những tệ nạn xã hội và mê tín dị đoan... nhằm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong từng gia đình, xã, phường, thị trấn; khắc phục những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống.
Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã góp phần động viên nhân dân tích cực xây dựng cuộc sống ở cơ sở thêm cởi mở, ổn định, tăng cường đoàn kết và đồng thuận; môi trường xã hội, văn hóa trở nên lành mạnh, trong sạch, bảo đảm được an sinh và an ninh cuộc sống.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình thực hiện Quy chế dân chủ trên địa bàn xã, phường, thị trấn những năm qua còn một số hạn chế như: (1) Một số cơ sở khi triển khai, thực hiện Quy chế dân chủ còn mang tính hình thức, thiếu sự phối hợp, kiểm tra; (2) Nhận thức về vai trò làm chủ của nhân dân của một số địa phương trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ chưa được nâng cao; (3) Một bộ phận nhân dân chỉ quan tâm tới lợi ích kinh tế, lợi ích cá nhân mà không quan tâm tới lợi ích tập thể, xã hội khiến cho việc thực hiện Quy chế dân chủ bị phiến diện, lệch lạc; (4) Việc triển khai, thực hiện Quy chế dân chủ của một số địa phương, cơ sở còn chưa gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố chính quyền và các tổ chức đoàn thể; (5) Vai trò lãnh đạo của cấp ủy đối với thực hiện Quy chế dân chủ có nơi, có lúc chưa phát huy đúng mức...
Những hạn chế trên cần được khắc phục với một quyết tâm chính trị cao và các giải pháp đồng bộ để thực hiện tốt Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
2.4. Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại xã, phường, thị trấn hiện nay
Một là, triển khai thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, từng bước mở rộng và hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ hóa và phát triển kinh tế - xã hội là hai nội dung cơ bản của quá trình đổi mới. Dân chủ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện cho phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế - xã hội là yếu tố quan trọng, quyết định mức độ dân chủ hóa đời sống xã hội. Bởi vậy, thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở trước hết nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn.
Để thực hiện hiệu quả Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại xã, phường, thị trấn gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, cần có các hình thức thông tin, tuyên truyền phù hợp để người dân được biết, được bàn, được tham gia ý kiến, được quyết định và qua người đại diện quyết định các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, cơ cấu sản xuất, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm.
Hai là, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, và cả hệ thống chính trị, trước hết là hệ thống chính trị ở cơ sở, nhằm thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở một cách đồng bộ, nền nếp tại xã, phường, thị trấn
Việc thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại xã, phường, thị trấn cũng như quá trình phát huy dân chủ nói chung phải đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng. Thực hiện tốt Luật trên sẽ tạo sự ổn định và phát triển bền vững ở cơ sở. Tiếp tục thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nghiêm việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân góp ý cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu thông qua các cuộc đối thoại trực tiếp.
Tuyên truyền, quán triệt sâu rộng trong cán bộ, đảng viên, nhân dân những quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị và những nội dung cơ bản của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Luật gắn chặt với chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, từng mặt công tác và trách nhiệm của từng cá nhân, nhất là người đứng đầu. Các chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng, chỉnh đốn Đảng; cải cách hành chính, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí phải gắn với việc thực hiện Luật và coi đây là một giải pháp quan trọng để thực hiện.
Ba là, quá trình thực hiện và cụ thể hóa Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại xã, phường, thị trấn phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn cơ sở, bảo đảm thiết thực và có tính khả thi
Các ngành, các cấp, nhất là các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở cần bám sát các chủ trương của Đảng và Nhà nước, xây dựng chương trình hành động cụ thể, thiết thực, sát với từng địa bàn, có các biện pháp huy động nguồn lực thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra. Phát động các tầng lớp nhân dân, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước gắn với các phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh”, “Xóa đói, giảm nghèo”, “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”... Đưa việc thực hiện Luật thành những phong trào rộng khắp, tạo khí thế phát triển mới, bảo đảm môi trường xã hội lành mạnh, đoàn kết, đồng thuận trong xã, phường, thị trấn, địa bàn dân cư.
Để nâng cao hiệu lực và tính nghiêm minh của luật pháp, cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính ở cơ sở, rà soát những quy định, loại bỏ những phần rườm rà, không phù hợp để bớt phiền hà cho nhân dân. Quy định rõ trách nhiệm, công khai phân công công việc cho mỗi cán bộ phụ trách để nhân dân biết để liên hệ, theo dõi, kiểm tra, giám sát. Xây dựng và hoàn thiện các quy ước của tiểu khu, tổ dân phố, hương ước ở thôn, bản phù hợp với pháp luật. Phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê hương, dân tộc để xây dựng cộng đồng hòa thuận theo các chuẩn mực của đời sống mới; phát huy vai trò của các tổ hòa giải, đồng thời cần chú trọng nâng cao vai trò của cán bộ tư pháp - hộ tịch xã, phường, thị trấn nhằm giữ vững kỷ cương, kỷ luật, thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Kế hoạch thực hiện Luật phải phù hợp và gắn liền với nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội và mọi hoạt động của địa phương, cơ sở; phải gắn với củng cố, kiện toàn cộng đồng dân cư, xã, phường, thị trấn.
Bốn là, tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực thực hành dân chủ cho nhân dân
Mỗi người dân cần có trình độ, năng lực thực hành dân chủ. Năng lực thực hành dân chủ của người dân phụ thuộc rất nhiều ở trình độ hiểu biết, nhận thức xã hội và trình độ văn hóa nói chung. Có nhận thức đúng, nhân dân mới hiểu rõ được mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng và nội dung của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, từ đó thực hiện tốt. Để nâng cao nhận thức, năng lực thực hành dân chủ nhân dân cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục để người dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc triển khai Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là những hiểu biết về pháp luật. Tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào quá trình: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Thông qua đó, nâng cao nhận thức, năng lực thực hành dân chủ của nhân dân.
Năm là, tích cực đào tạo cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cơ sở, đáp ứng quá trình thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại xã, phường, thị trấn
Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở, về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, khả năng lãnh đạo, quản lý và khả năng vận động quần chúng. Đưa nội dung thực hiện Luật vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hệ thống chính trị cơ sở. Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có đủ phẩm chất, năng lực, có kỹ năng tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, biết làm và dám làm giàu chính đáng, biết hướng dẫn, phát huy quyền làm chủ và tính tự quản của nhân dân.
Sáu là, định kỳ tổng kết việc thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại xã, phường, thị trấn
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách”(9).
Sơ kết, tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện quy ước, hương ước cũng như Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở là đòi hỏi của thực tiễn; việc thực hiện và bổ sung, hoàn thiện quy ước, hương ước gắn liền với công tác tổng kết thực tiễn luôn là vấn đề cần thiết.
Việc sơ kết, tổng kết trước hết tại thôn, bản, cụm dân cư để tổng hợp ý kiến tham gia của nhân dân. Quá trình đó phải phù hợp với từng vùng, từng dân tộc; phù hợp với trình độ dân trí và điều kiện kinh tế ở địa phương, cơ sở; phù hợp với tâm tư, tình cảm, bản sắc dân tộc. Có như vậy, việc triển khai cụ thể hóa Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở mới đạt hiệu quả cao.
3. Kết luận
Sự thống nhất cao trong lãnh đạo chỉ đạo, kiên quyết trong điều hành, đồng bộ trong tổ chức thực hiện; xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng dân chủ, vi phạm pháp luật, giữ vững kỷ cương, phép nước, đưa Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở vào thực tiễn là góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Những giải pháp cơ bản nêu trên từ đặc điểm riêng của mỗi địa phương, cơ sở, các cấp ủy chính quyền có thể vận dụng chúng và có thêm các giải pháp cụ thể phù hợp với thực tiễn để việc triển khai Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở đạt hiệu quả cao.
_________________
Ngày nhận bài: 12-12-2024; Ngày bình duyệt: 24-12-2024; Ngày duyệt đăng: 20-3-2025.
Email tác giả: nguyenthanhsonct@gmail.com
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.29.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.116.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.55, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.336.
(4) ĐCSVN: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.84.
(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.125.
(6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.47-48.
(7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.79.
(8), (9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.172-173, 181-182