Nghiên cứu lý luận

Sự phát triển lý luận về bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng trong thời kỳ đổi mới

08/10/2025 10:32

(LLCT) - Từ khi thành lập đến nay, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên trì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thể hiện trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Để bảo đảm, giữ vững vai trò, vị thế cầm quyền, Đảng phải tiến hành các mặt công tác xây dựng nội bộ Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ. Trong đó, phát triển lý luận về bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò, uy tín chính trị có ý nghĩa quyết định đến sức mạnh của Đảng và toàn hệ thống chính trị, quyết định đến vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng, niềm tin và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

PGS, TS TRẦN THỊ HƯƠNG
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII khai mạc trọng thể tại Thủ đô Hà Nội. (Ảnh: ĐĂNG KHOA)
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII khai mạc trọng thể tại Thủ đô Hà Nội, ngày 6-10-2025_Ảnh: Báo Nhân dân

1. Mở đầu

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ khi đổi mới đến nay, Đảng luôn quan tâm phát triển lý luận về bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò và uy tín chính trị, coi đây là vấn đề quan trọng, giữ vai trò then chốt đối với sự nghiệp cách mạng, là yếu tố quyết định đến thành bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, nghị quyết của Trung ương đã chỉ ra những nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng; đồng thời không ngừng phát triển nhận thức về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng.

2. Nội dung

2.1. Sự phát triển nhận thức về những nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc rằng, vị trí cầm quyền, vai trò lãnh đạo và uy tín chính trị của Đảng không phải là bất biến, mà luôn phải được củng cố, bảo vệ và nâng cao bằng thực tiễn lãnh đạo hiệu quả, bằng sự gắn bó mật thiết với nhân dân và bằng khả năng thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của tình hình trong nước, khu vực và thế giới. Nhận thức về các nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng không ngừng được nâng cao và phát triển theo từng thời kỳ, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nước.

Tại Đại hội VI, Đảng đã chỉ ra các sai lầm, khuyết điểm làm cho việc thực hiện các nghị quyết của Đại hội IV và Đại hội V không thành công, làm giảm uy tín chính trị, đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là sai lầm về “chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện [...] sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ [...] sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ”(1).

Hội nghị Trung ương 5 khóa VI đã thông qua Nghị quyết số 05-NQ/HNTW ngày 20-6-1988, một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, thẳng thắn chỉ ra những yếu kém làm giảm sút vai trò lãnh đạo, uy tín chính trị của Đảng: “Sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức chưa ngang tầm nhiệm vụ cách mạng, chưa đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới và yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Việc cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng còn chậm, có cái chưa thật sát hợp. Năng lực tổ chức thực hiện của nhiều cấp ủy đảng và trình độ quản lý điều hành của nhiều cơ quan nhà nước còn kém [...]. Quan hệ giữa Đảng và quần chúng bị xói mòn, uy tín của Đảng giảm sút nghiêm trọng(2).

Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) đã xác định 4 nguy cơ trước mắt của đất nước, của chế độ và Đảng là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đây là sự khái quát cao những nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng. Đến nay, sau hơn 30 năm, bốn nguy cơ này vẫn còn hiện diện, tuy sắc thái, mức độ có khác nhau.

Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 02-02-1999 về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, nhận định: “...trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới”(3).

Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16-01-2012, một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Nghị quyết đánh giá: “...công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”(4); đồng thời chỉ ra 3 vấn đề cấp bách cần tập trung giải quyết, đó là: Thứ nhất, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc. Thứ hai, đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Thứ ba, nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm.

Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước, đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển. Trong khi đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhận định của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI cho thấy sự phát triển nhận thức của Đảng về những nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng vào thời điểm đó.

Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2016 của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”(5). Những hạn chế, khuyết điểm trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tiếp tục nhấn mạnh một số mối đe dọa uy tín, niềm tin của nhân dân và vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”(6).

Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhiều lần nhấn mạnh và chỉ rõ về những nguy cơ hiện hữu và tiềm ẩn có thể trực tiếp đe dọa đến vị trí cầm quyền, vai trò lãnh đạo và uy tín chính trị của Đảng. Trong bài viết “Việt Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên mới và những vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Ở trong nước, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Các thế lực thù địch, phản động ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn thâm độc, tinh vi, ngày càng công khai trực diện, đan xen và nguy hiểm; thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Bên cạnh đó, xuất hiện các thách thức, nguy cơ mới, phi truyền thống như: Nguy cơ xâm phạm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, chiến tranh mạng; các thách thức an ninh môi trường, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, an ninh nguồn nước, dịch bệnh, an ninh lương thực. Hoạt động của tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm xâm phạm trật tự, an toàn xã hội diễn biến phức tạp, tính chất “quốc tế hóa” ngày càng gia tăng, có thể chuyển hóa thành nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia; tội phạm kinh tế, chức vụ có sự cấu kết chặt chẽ với các cán bộ thoái hóa biến chất trong bộ máy nhà nước, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, đe dọa trực diện đến an ninh chính trị và lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa”(7).

Như vậy, từ khi mở đầu công cuộc đổi mới đến nay, nhận thức về những nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò và uy tín chính trị của Đảng không ngừng được phát triển toàn diện và sâu sắc hơn. Việc không ngừng nâng cao nhận thức và năng lực ứng phó với các nguy cơ là điều kiện tiên quyết để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới.

2.2. Sự phát triển nhận thức về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng

Từ nhận thức về những nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò, uy tín chính trị, Đảng đã không ngừng phát triển nhận thức về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò, uy tín chính trị của mình.

Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa quyết định trong việc tăng cường sức mạnh của Đảng, nâng cao uy tín của Đảng trong quần chúng nhân dân, bảo đảm cho Đảng vươn lên ngang tầm những nhiệm vụ mới. Đảng rút ra bốn bài học kinh nghiệm lớn: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa(8). Đồng thời, Đảng chủ trương: “Sau Đại hội Đảng, cần có kế hoạch tiến hành cuộc vận động làm trong sạch Đảng, khắc phục những hiện tượng hư hỏng trong bộ máy nhà nước, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Một hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương sẽ thảo luận chuyên đề về công tác xây dựng Đảng”(9).

Đến Đại hội VII, Đảng tiếp tục chỉ ra những yếu kém, trì trệ trong Đảng và chủ trương: “Đảng ta phải tự đổi mới và chỉnh đốn, có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu mới, khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực và các mặt yếu kém, khôi phục và nâng cao uy tín của Đảng trong nhân dân. Đảng phải được xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thật sự là đội tiên phong chính trị của toàn xã hội, đại biểu lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”(10).

Sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, khi phân tích những yếu kém, nguy cơ của Đảng, Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 26-6-1992 của Hội nghị Trung ương 3 khóa VII về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng đã xác định: “Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải khẩn trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh chế độ ta và Đảng ta”(11).

Trung ương xác định yêu cầu phải đạt trong những năm trước mắt là: Thứ nhất, nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng. Thứ hai, chỉnh đốn hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ chức cơ sở đảng, trước hết là ở những cơ sở trọng yếu về chính trị và kinh tế, bảo đảm sự lãnh đạo thông suốt đến mọi cơ sở. Thứ ba, tạo một bước chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ. Thứ tư, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Trước tình trạng sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, đề ra chủ trương toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình kỷ niệm 30 nǎm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (02/9/1969 – 02/9/1999) và kỷ niệm 70 nǎm thành lập Đảng (03/02/1930 – 03/02/2000). Cuộc vận động này tiến hành từ ngày 19-5-1999 đến ngày 19-5-2001, sau đó trở thành nền nếp, thường xuyên trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Nghị quyết nhấn mạnh đó là: “Tǎng cường sự thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý chí và hành động, kiên trì đấu tranh đẩy lùi bốn nguy cơ; đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng Cương Lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước; kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc…”(12).

Hội nghị Trung ương 4 khóa XI sau khi chỉ ra 3 vấn đề cấp bách cần tập trung giải quyết, đã chủ trương tập trung cao độ để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách sau: Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng. Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết cũng chỉ rõ, trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.

Về giải pháp, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI quyết định tổ chức đợt tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng, từ Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đến cơ sở. Nhờ sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI một cách bài bản, quyết liệt nên đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, tạo chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị, góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, suy thoái trong Đảng.

Phát huy thành công của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Với quan điểm: “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách”(13).

Lý luận về bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò và uy tín chính trị luôn được Đảng quan tâm và được bổ sung, phát triển với nhiều nội dung, quan điểm, giải pháp mới phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Nhờ đó, Đảng ngày càng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác

Nghị quyết đã có sự phát triển về nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng thể hiện qua sự nhấn mạnh: Hằng năm, người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên có cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; các cấp ủy, tổ chức đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và bí thư cấp ủy các cấp. Rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm. Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức đối với cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu. Trước mắt, rà soát, kiểm tra, xử lý dứt điểm các vụ việc vi phạm trong thực thi quyền lực gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng và thực hiện Quy định về việc lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cơ quan, cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp; có hình thức xử lý đối với những tổ chức, cá nhân có chỉ số hài lòng thấp.

Ngày 25-10-2021, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII ban hành Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Mục tiêu là: Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng... Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa “xây” và “chống”, xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Tạo bước phát triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh, ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, ngày càng được nhân dân tin tưởng; đủ uy tín và năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để lãnh đạo đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới, nhận thức của Đảng ta về phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nhằm bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò và uy tín chính trị của Đảng tiếp tục được phát triển theo hướng toàn diện, sâu sắc và phù hợp thực tiễn hơn. Ba nhiệm vụ chiến lược của kỷ nguyên mới được Đảng xác định bao gồm: Giữ vững, duy trì môi trường hòa bình, ổn định; phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững; nâng cao đời sống của nhân dân, tất cả vì nhân dân(14).

Trong bài phát biểu tại Phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 12, khóa XIII, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng phải khẳng định vai trò then chốt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; chống chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống; tăng cường kiểm soát quyền lực; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; nâng cao năng lực quản trị quốc gia và điều hành hoạt động của tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị(15).

Như vậy, nhận thức của Đảng về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò, uy tín chính trị ngày càng hoàn thiện, khẳng định sự phát triển về lý luận và tư duy chính trị của Đảng trong điều kiện mới. Sự phát triển này không chỉ giúp Đảng tự bảo vệ mình trước các nguy cơ hiện hữu mà còn tạo dựng nền tảng để tăng cường niềm tin của nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

3. Kết luận

Thực tiễn công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay cho thấy, xây dựng nội bộ Đảng là nhiệm vụ rất quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, để Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Trong đó, lý luận về bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò và uy tín chính trị luôn được Đảng quan tâm và được bổ sung, phát triển với nhiều nội dung, quan điểm, giải pháp mới phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Nhờ đó, Đảng ngày càng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

_________________

Ngày nhận bài: 30-9-2025; Ngày bình duyệt: 6-10-2025; Ngày quyết định đăng: 8-10-2025

Email tác giả: tranhuongxdd@gmail.com

(1), (9) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.360-361, 475.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.49, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.263-264.

(3), (12) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.58, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.57, 62.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2012, tr.21-22.

(5), (13) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.22, 35.

(6) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021, tr.89.

(7), (14) Việt Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên mới và những vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, https://www.qdnd.vn, ngày 02-7-2025.

(8) Xem: ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.362-365.

(10) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 50, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.502-503.

(11) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.191-192.

(15) Toàn văn: Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 12, khóa XIII, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn, ngày 20-7-2025.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Sự phát triển lý luận về bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng trong thời kỳ đổi mới
    POWERED BY