(LLCT) - Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật là một trong những nội dung cốt lõi của tư tưởng chính trị. Những quan điểm, tư tưởng của Người về pháp luật là nền tảng tư tưởng - lý luận soi đường cho tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, bài viết đề xuất việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ cấp cơ sở, góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở hiệu lực, hiệu quả.
TS TRẦN THÙY LINH
Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông,
Đại học Thái Nguyên
1. Mở đầu
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong việc thực hiện pháp luật và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở cần vững vàng về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống và được trang bị kiến thức pháp luật để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ được giao, trở thành tấm gương, “hình mẫu” trong phổ biến, tuyên truyền các giá trị pháp luật và đạo đức, góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
2. Nội dung
2.1. Những nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật
Một là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”(1). Bản Hiến pháp năm 1946 ra đời đã thể hiện tư tưởng pháp quyền trong xây dựng Nhà nước kiểu mới ở nước ta. Qua đó cho thấy, Người đặc biệt nhấn mạnh hiệu lực của Hiến pháp không chỉ trên văn bản mà còn biểu hiện ở việc tổ chức quyền lực nhà nước, đòi hỏi sự tuân thủ triệt để từ mọi cá nhân và tổ chức.
Để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh, Hiến pháp là cốt lõi của sức mạnh pháp quyền. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn”(2), điều này khẳng định rằng, pháp luật với tư cách là công cụ quyền lực cần được thực hiện nghiêm minh và công bằng nhằm bảo đảm trật tự xã hội. Trên cơ sở đó, Người khẳng định quan điểm: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân, tức là: Tuân theo pháp luật Nhà nước...”(3).
Hai là, pháp luật là cơ sở để “dân là chủ và dân làm chủ”
Trong bài báo Dân vận đăng trên Báo Sự thật (ngày 15-10-1949), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(4). Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng “dân là chủ”, nhân dân đóng vai trò “chủ thể gốc” của quyền lực, các cấp chính quyền từ xã đến trung ương cũng như các đoàn thể đều do dân bầu và tổ chức.
Pháp luật với vai trò là công cụ quản lý và điều tiết xã hội cần chứa đựng các giá trị nhân văn, công bằng và bảo đảm chính nghĩa. Các giá trị này được thể hiện rõ trong Hiến pháp và các đạo luật với “mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người (…) đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy”(5). Với ý nghĩa đó, pháp luật cần được thiết lập để kiểm soát và ràng buộc quyền lực nhà nước, bảo vệ lợi ích và quyền lợi chính đáng của nhân dân lao động, tạo cơ sở xây dựng chính quyền thực sự “của dân, do dân và vì dân”(6).
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là mục tiêu của xây dựng chế độ mới, hướng tới bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân. Dân chủ không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và quản lý xã hội mà còn biểu hiện ở văn hóa, phát triển… nhằm tạo cơ sở giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm chính sách, an sinh xã hội cho con người và vì con người. Với quan niệm đó, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân (...) Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”(7).
Điều 1, Hiến pháp năm 1946 chỉ rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”(8). Nội dung này đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ dân chủ nhân dân, Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đây là cơ sở hướng tới thiết lập một nhà nước dân chủ, quyền lực thực sự trong tay của nhân dân. Mặt khác, quyền lực thực sự thuộc về nhân dân còn thể hiện ở khía cạnh nhân dân có quyền bầu ra những đại biểu đại diện cho lợi ích chính đáng của mình, có quyền kiểm soát và bãi miễn đại biểu không xứng đáng với niềm tin của nhân dân.
Ba là, pháp luật là cơ sở điều chỉnh hành vi của cán bộ
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của pháp luật là cơ sở điều chỉnh hành vi của cán bộ. Cán bộ là nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm pháp luật được thực thi hiệu quả và nghiêm minh. Người đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, đó là: “Phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng. Gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình tham gia”(9). Phương thức cơ bản nhằm phát triển năng lực, đạo đức và tinh thần đoàn kết của cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở những điểm sau: 1) Trong công tác chỉ đạo cần trao quyền tự chủ để cán bộ làm việc theo tinh thần, trách nhiệm; 2) Chú trọng nâng cao chất lượng công việc, khuyến khích cán bộ nâng cao trình độ lý luận và kỹ năng làm việc; 3) Thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra để giúp cán bộ phát huy ưu điểm và nhận ra hạn chế, khuyết điểm; 4) Khi cán bộ mắc lỗi cần dùng phương pháp thuyết phục để họ tự sửa chữa, thay vì trừng phạt; 5) Bảo đảm các điều kiện thiết yếu để cán bộ yên tâm công tác.
Bốn là, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Hồ Chí Minh luôn đặt pháp luật trong mối quan hệ chặt chẽ với đạo đức, trong đó đạo đức đóng vai trò là cơ sở, nền tảng. Việc đem lại cuộc sống bình yên, ấm no, tự do, hạnh phúc là giá trị cao nhất mà pháp luật hướng tới. Hai yếu tố pháp luật và đạo đức luôn quy định, ràng buộc và tạo điều kiện cho nhau phát triển. Sự thay đổi của pháp luật có thể dẫn đến những biến đổi trong đạo đức xã hội và ngược lại. Về nguyên tắc, hệ thống pháp luật được xây dựng trên nền tảng của hệ thống đạo đức tương thích, phản ánh giá trị và chuẩn mực xã hội. Không có pháp luật nào đứng ngoài mối quan hệ với đạo đức, vì đạo đức là gốc của pháp lý.
Trong quản lý xã hội, đạo đức góp phần bảo đảm cho pháp luật thực sự là của dân, do dân và vì dân. Đạo đức là gốc, là nền tảng, điểm xuất phát trong mọi khâu từ xây dựng đến thực thi và bảo vệ pháp luật. Trong Bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(10). Người luôn tâm niệm mọi chính sách pháp luật đều hướng tới chăm sóc, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Mặc dù xác định đạo đức là cơ sở, nền tảng song không được hạ thấp vai trò của pháp luật. Pháp luật cần hướng tới bảo vệ và bảo đảm quyền lợi cho hàng triệu người lao động. Đó thực sự là pháp luật dân chủ, bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Đồng thời, bên cạnh việc giáo dục đạo đức, cần kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở các tầng lớp nhân dân chấp hành nghiêm mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Người yêu cầu: “giáo dục đạo đức công dân để mọi người hiểu rõ: Lợi ích chung của nước nhà và lợi ích riêng của người dân là nhất trí; quyền lợi của công dân và nghĩa vụ của công dân là nhất trí; đã là người chủ của nước nhà thì phải phụ trách đối với Tổ quốc”(11).
Luôn chú trọng kết hợp chặt chẽ giữa pháp luật và đạo đức trong tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị, Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cán bộ, đảng viên công tác trong các cơ quan đảng, nhà nước, mặt trận cần kết hợp chặt chẽ giữa pháp luật và đạo đức. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải được thể chế hóa bằng pháp luật, mỗi tổ chức đảng, đảng viên phải thực sự tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, chấp hành và thực hiện nghiêm pháp luật.
Kết hợp pháp luật và đạo đức cần phát huy nhân tố cán bộ, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc(12); “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”(13). Cán bộ là nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm cho pháp luật và đạo đức được thực thi hiệu quả. Một mặt, cán bộ là lực lượng chủ đạo trong tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; mặt khác, là tấm gương về chuẩn mực đạo đức và thực thi pháp luật để nhân dân noi theo.
Trong tác phẩm Đạo đức công dân, Người chỉ rõ: “Cán bộ giáo dục quần chúng bằng cách vạch rõ âm mưu của địch, lấy sự thật mà giải thích cho quần chúng rõ địa vị cao quý của người chủ nước nhà, lực lượng xây dựng to lớn của ta, tương lai vẻ vang của dân tộc, nâng cao tinh thần yêu nước của mọi người”(14). Nhân cách cán bộ là sự gắn kết hài hòa giữa tính pháp lý và tính đạo đức; trong đó, đạo đức là gốc của người cán bộ, quyết định các tiêu chuẩn pháp lý. Người chỉ rõ, đối với những cán bộ thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật cần giáo dục, phê bình, nghiêm trị theo luật định; mặt khác, “Những phần tử nào biến chất, giáo dục không được, thì kiên quyết đưa ra”(15). Bởi chỉ như vậy mới bảo đảm cán bộ thực sự là hạt nhân nòng cốt, lực lượng chủ đạo tạo dựng khối đoàn kết toàn dân.
Có thể thấy, pháp luật và đạo đức có mối quan hệ gắn bó, cùng điều chỉnh, định hướng hành vi xã hội. Pháp luật không chỉ duy trì trật tự mà còn phản ánh, điều chỉnh chuẩn mực đạo đức, làm cho cả hai cùng phát triển hài hòa theo hướng tiến bộ, vì mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật, Người yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên cần là tấm gương sáng trong việc chấp hành pháp luật. Bởi “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(16). Người đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tư pháp, bởi đây là lực lượng trực tiếp thực thi và bảo vệ pháp luật, mọi việc làm của họ đều ảnh hưởng và tác động lớn tới quần chúng nhân dân…
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ cấp cơ sở
Trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, cán bộ cấp cơ sở đóng vai trò quan trọng “trong việc hiện thực hóa sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội ở cơ sở; là người giữ vai trò quyết định trong việc quán triệt, tổ chức thực hiện mọi quyết định của cấp ủy cấp trên (…) là nhân tố không nhỏ góp phần quyết định sự thành bại của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”(17). Do đó, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ cấp cơ sở cần thực hiện một số nội dung sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp về vai trò thực thi pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật là cơ sở, nền tảng, tiền đề để hình thành hệ thống quan điểm, thái độ của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật. Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp về vai trò thực thi pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở cần đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về công tác phổ biến, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Cấp ủy, chính quyền các cấp cần tổ chức học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo điều kiện để cán bộ cấp cơ sở thường xuyên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp và các chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật để nâng cao năng lực giải quyết công việc. Thiết lập môi trường làm việc khuyến khích sự sáng tạo và vận dụng những tri thức về pháp luật, góp phần củng cố, nâng cao ý thức từng cán bộ. Để giải quyết hiệu quả các mâu thuẫn nảy sinh từ thực tiễn công tác, cán bộ cấp cơ sở cần được trang bị kiến thức pháp luật vững vàng và kỹ năng vận dụng pháp luật sáng tạo. Điều này không chỉ giúp xử lý linh hoạt các tình huống phức tạp mà còn góp phần vận dụng hiệu quả các quy định của pháp luật phù hợp với nhu cầu và đặc thù của từng địa phương.
Đồng thời, tạo tiền đề để cán bộ cấp cơ sở xác định mục tiêu, xây dựng động cơ làm việc đúng đắn, nâng cao ý thức pháp luật, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Qua đó, cải thiện kỹ năng lãnh đạo, quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, góp phần xây dựng cơ sở hiệu lực, hiệu quả.
Hai là, cán bộ cấp cơ sở cần bám sát thực tiễn, rèn luyện trong thực tiễn công tác
Thực tiễn không chỉ là cơ sở của nhận thức mà còn là môi trường sống, nơi cung cấp nguồn tư liệu, thông tin để cán bộ rèn luyện, trưởng thành. Thông qua hoạt động thực tiễn, cán bộ nói chung và cán bộ cấp cơ sở nói riêng có thể kiểm chứng tính đúng đắn và hiệu quả của những quyết định mà họ đưa ra, từ đó nâng cao tinh thần, trách nhiệm trong công việc.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, một bộ phận cán bộ “Không đi sâu đi sát phong trào, không nắm được tình hình cụ thể của ngành hoặc của địa phương mình, không gần gũi quần chúng và học hỏi kinh nghiệm của quần chúng (…) Do đó mà đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Chính phủ có khi không thấu đến quần chúng hoặc bị thi hành lệch lạc, kết quả là đã hỏng công việc lại mất lòng người”(18). Thông qua hoạt động thực tiễn, cán bộ nhận thức rõ hơn về mong muốn và nguyện vọng của nhân dân, hạn chế tình trạng quan liêu, xa rời quần chúng. Mặt khác, thực tiễn cũng là tấm gương phản chiếu để cán bộ hoàn thiện, thay đổi hành vi trong hoạt động công vụ và nhạy bén hơn trong xử lý công việc.
Việc tiếp cận, thâm nhập vào thực tiễn còn giúp cán bộ cấp cơ sở xây dựng niềm tin và uy tín từ nhân dân. Khi cán bộ thực sự tham gia và hiểu biết sâu sắc về đời sống của người dân, các quyết định của họ sẽ trở nên có căn cứ và hợp lý hơn. Việc phổ biến, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để người dân nắm bắt và vận dụng sẽ trở nên dễ dàng và hiệu quả. Trên cơ sở đó, góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả.
Bên cạnh đó, cần bám sát Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Trong đó, chú trọng: “Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung”(19).
Ba là, nghiêm túc thực hiện quy trình về công tác cán bộ, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng và lựa chọn cán bộ cấp cơ sở
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Huấn luyện cho cán bộ phải có kế hoạch, phải có phương hướng, thưởng, phạt cho công bình”(20). Đồng thời, Người nhấn mạnh: “nơi nào có cán bộ tốt, thì cả vùng đó hoạt động như một bộ máy. Và cả vùng đó tỏ ra một bầu không khí hăng hái, vui vẻ”(21).
Kết quả đánh giá cán bộ, công chức ở một số cơ quan, đơn vị “không phản ánh đúng kết quả, chưa tạo động lực” để cán bộ, công chức nỗ lực, phát huy hết năng lực thực thi nhiệm vụ, công vụ(23). Để nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở cần bám sát các khâu, quy trình về công tác cán bộ. Đồng thời, để đội ngũ cán bộ cấp cơ sở phát huy tiềm năng, thế mạnh trong hoạt động công vụ cần xây dựng kế hoạch, chương trình về công tác huấn luyện cán bộ theo hướng chú trọng giáo dục, nâng cao hiểu biết, kiến thức về pháp luật.
Bám sát quan điểm chỉ đạo của Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018; Nghị định 33/2023/NĐ-CP ngày 10-6-2023 của Chính phủ quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố… cấp ủy, chính quyền các cấp cần xây dựng kế hoạch công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở, nâng cao hiệu quả công việc. Chú trọng: “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ”(23).
Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng tiêu chuẩn chức danh và tiêu chí đánh giá cán bộ theo vị trí việc làm, trên cơ sở đó thúc đẩy cán bộ tự đào tạo, bồi dưỡng.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
Công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật trong hoạt động công vụ là một trong những nhân tố góp phần nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, cán bộ cấp cơ sở “là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”(24); “các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”(25).
Tại Đại hội XIII, Đảng ta chỉ rõ thực tế: “Việc thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công tác cán bộ còn chậm, còn một số nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng”(26). Vì vậy, các cấp ủy, chính quyền cần nghiên cứu, thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh đối với những hành vi vi phạm pháp luật. Qua đó, tạo động lực khuyến khích sự tuân thủ pháp luật của cán bộ và quần chúng nhân dân; đồng thời, tạo dựng niềm tin của nhân dân vào hệ thống pháp luật.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật của cán bộ cấp cơ sở, trong đó, chú trọng sự phối hợp giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII. Nội dung công tác kiểm tra, giám sát cần tập trung vào: Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; giám sát việc triển khai xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới; giám sát, xác minh, kiến nghị xử lý kịp thời thông tin phản ánh từ các tổ chức, cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng đối với các nội dung liên quan đến đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ; giám sát các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… của cán bộ(27).
Định kỳ tiến hành sơ kết, tổng kết công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật của cán bộ cấp cơ sở. Kịp thời biểu dương, khen thưởng và tôn vinh những cá nhân, tập thể có nhiều thành tích, sáng kiến trong thực thi pháp luật; đồng thời, khiển trách, phê bình những cán bộ, đảng viên vi phạm.
3. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật là nền tảng lý luận, định hướng việc nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ cấp cơ sở nói riêng. Trong bối cảnh hiện nay, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật vào nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ cấp cơ sở đòi hỏi mỗi cán bộ không ngừng học tập, rèn luyện, tạo cơ sở nền tảng áp dụng linh hoạt pháp luật vào thực tiễn. Đây chính là chìa khóa để đội ngũ cán bộ cấp cơ sở thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
_________________
Ngày nhận bài: 22-3-2025; Ngày bình duyệt: 8 -4-2025; Ngày duyệt đăng: 19-4-2025.
Email tác giả: linhtt@ictu.edu.vn
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.473.
(2), (5), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.189, 21, 64-65.
(3), (10), (11), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.258, 518, 259, 259.
(4), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.232, 16.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Sđd, tr.545.
(8) Quốc hội: Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 9-11-1946.
(9), (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr.242, 29.
(12), (13), (21), (23), (24), (25) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.309, 168, 264, 166-167, 460, 273
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.683.
(17) Mấy khía cạnh lý luận về cán bộ, công chức cấp cơ sở, ttps://www.tuyengiao.vn, ngày 22-3-2019.
(19) Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
(21) Bộ Chính trị: Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
(22) Bộ trưởng Nội vụ thông tin về bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật cán bộ công chức, https://tienphong.vn, ngày 26-10-2024.
(26) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.196.
(27) Phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội để tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, https://tcnn.vn, ngày 02-8-2022.