(LLCT) - Hiện nay, nhằm âm mưu chống phá, gây hoài nghi vào đường lối, chủ trương của Đảng, các thế lực thù địch đang lan truyền những luận điệu sai trái, xuyên tạc rằng ở Việt Nam đang phân biệt đối xử với thành phần kinh tế tư nhân. Bài viết phân tích, khẳng định Đảng và Nhà nước Việt Nam không hề phân biệt đối xử mà xác định thành phần kinh tế tư nhân là một bộ phận hợp thành cơ cấu nền kinh tế, là động lực quan trọng nhất, là đòn bẩy của nền kinh tế và được đối xử bình đẳng như các thành phần kinh tế khác.
TS NGUYỄN THỊ THANH TÂM
TS TRẦN THANH TÙNG
Học viện Chính trị khu vực I

1. Mở đầu
Trước đổi mới, do điều kiện, bối cảnh của đất nước, Việt Nam chưa thực hiện phát triển thành phần kinh tế tư nhân (KTTN) theo đúng nghĩa của nó. Quá trình đổi mới, nhận thức về mô hình kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam thay đổi và chuyển sang phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, trên cơ sở tôn trọng, vận dụng sáng tạo quy luật kinh tế khách quan để phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ, thành phần KTTN đã được thừa nhận, có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
2. Nội dung
2.1. Thực tiễn phát triển thành phần kinh tế tư nhân
Trong quá trình đổi mới, quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của KTTN thể hiện trong nhiều văn kiện, nghị quyết. KTTN từ chỗ bị phủ nhận, đã từng bước được thừa nhận; ban đầu với tư cách là một đơn vị kinh tế cá thể tiểu chủ và tư bản tư nhân (Nghị quyết 16 Bộ Chính trị khóa VI, tháng 3-1989), đến Đại hội X (năm 2006) đã xác định rõ KTTN là một thành phần kinh tế (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân) tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế với nhiều thành phần khác.
Với góc độ đó, KTTN là khái niệm được dùng để chỉ thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. KTTN là thành phần kinh tế thuộc cơ cấu kinh tế của một quốc gia, được hình thành và phát triển dựa trên sự sở hữu của tư nhân về tư liệu sản xuất cũng như lợi ích cá nhân. Hiện nay, thành phần KTTN được khẳng định là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là đòn bẩy cho Việt Nam thịnh vượng.
Đặc điểm của thành phần KTTN Việt Nam:
Về lực lượng sản xuất: tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất của KTTN Việt Nam không đồng đều, nhiều trình độ, nhìn chung còn lạc hậu. Xu hướng chủ yếu trong những năm qua là đầu tư vào những lĩnh vực có hiệu quả nhanh, sớm cho kết quả.
Về quan hệ sản xuất được xem xét trên ba mặt. Một là, về quan hệ sở hữu, sở hữu tư nhân tồn tại trong các hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ thường có quy mô nhỏ, gắn với cá nhân hay hộ gia đình sản xuất ra sản phẩm bằng sức lao động của chính cá nhân hay hộ gia đình, doanh nghiệp đó. Các nguồn lực đầu vào do chính người sở hữu sử dụng và chi phối, ba yếu tố của quyền sở hữu nhập làm một trong một chủ sở hữu… Sở hữu tư nhân tồn tại trong các loại hình doanh nghiệp thì tư liệu sản xuất có thể do chủ sở hữu sử dụng, quản lý và chi phối hoặc giao quyền quản lý, sử dụng cho người khác, tức là ba yếu tố của quyền sở hữu có thể tách ra. Hai là, quan hệ tổ chức quản lý, thành phần KTTN đặc trưng mang tính bản chất là họ sử dụng tiền vốn của chính họ với một cơ chế năng động và linh hoạt, hướng tới hiệu quả cao trong hoạt động. Đó là điểm khác biệt quan trọng giữa khu vực KTTN và khu vực kinh tế nhà nước trong các nền kinh tế. Ba là, quan hệ phân phối, do người chủ là người sở hữu về vốn, nên họ là người có quyền quyết định việc phân chia giá trị thặng dư. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, khi nhiều tổ chức kinh tế hoạt động dựa trên sự kết hợp, đan xen nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì quan hệ phân phối càng trở lên phức tạp. Nhiều hình thức phân phối tồn tại đan xen lẫn nhau trong từng đơn vị sản xuất kinh doanh và cho từng cá nhân.
Trong lịch sử, khi thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thành phần KTTN bị xóa bỏ bởi chúng ta nhầm lẫn giữa phương tiện và mục đích, đã làm mọi cách, cố gắng thực hiện cho được mục tiêu xây dựng kinh tế nhà nước thành lực lượng thống trị trong nền kinh tế. Song, thực tế kinh tế nhà nước hay KTTN không phải là mục đích của nhân loại, nó chỉ là phương tiện để con người phát triển kinh tế, phát triển xã hội. Chính vì vậy, từ khi đổi mới đến nay, KTTN đã được khôi phục và trả lại vị trí, vai trò vốn có của nó trong cấu phần của nền kinh tế quốc dân.
Đường lối đổi mới đã mở đường cho thành phần KTTN phát triển, trở thành động lực quan trọng, có đóng góp to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập năm 2023 là 159.294 doanh nghiệp, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2022, lần đầu tiên chạm mức kỷ lục, gấp 1,2 lần mức bình quân giai đoạn 2017-2022. KTTN hoạt động hầu như trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam; duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 39-40% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế(1). Đến nay, khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế.(10)Đáng chú ý, trong 100 tập đoàn, doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam thì có 44/100 doanh nghiệp thuộc thành phần KTTN.
2.2. Nhận diện luận điệu xuyên tạc “phân biệt đối xử” đối với thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Trong quá trình vận động và phát triển, đa số cá nhân, tổ chức thuộc thành phần KTTN luôn tuân thủ, chấp hành đúng chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhưng bên cạnh đó, còn một số cá nhân, tổ chức thuộc thành phần KTTN hoạt động sản xuất, kinh doanh không đúng với quy định của pháp luật. Họ lợi dụng lỗ hổng của chính sách để móc ngoặc với một số cán bộ, đảng viên biến chất, suy thoái trong bộ máy nhà nước để trục lợi bất chính.
Thời gian vừa qua, nổi lên những vụ án tham nhũng lớn, nhiều chủ doanh nghiệp tư nhân thuộc các tập đoàn kinh tế lớn như: FLC, Vạn Thịnh Phát, Tập đoàn Thuận An, Tập đoàn Phúc Sơn… lợi dụng kẽ hở của luật pháp để cấu kết trục lợi, thiết lập “nhóm lợi ích” làm thất thoát, tổn thất tài sản của Nhà nước và nhân dân, nhiều chủ doanh nghiệp, lãnh đạo các tập đoàn KTTN bị xử lý hình sự, gây ra những hậu quả nặng nề với nền kinh tế cũng như làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào năng lực lãnh đạo của Đảng, khả năng điều hành, quản lý kinh tế của Chính phủ. Những kẻ cơ hội, thù địch lợi dụng điều này để thổi phồng và lan truyền những tin đồn thất thiệt về chính sách phát triển thành phần KTTN nhằm phá hoại chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, cho rằng mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam xây dựng không có đất cho KTTN phát triển, thành phần KTTN đang bị phân biệt đối xử. Đây là luận điệu xuyên tạc, rất nguy hiểm, khi lợi dụng những trường hợp cá biệt và sự thiếu thông tin, hiểu chưa đúng bản chất vấn đề của một bộ phận người dân để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ và chủ trương phát triển KTTN. Điều này gây tâm lý hoài nghi, lo lắng, không dám mạnh dạn đầu tư, tổ chức sản xuất kinh doanh. Luận điệu đó đã bộc lộ sự ấu trĩ về nhận thức và thiếu hiểu biết trên tất cả các khía cạnh chính trị, pháp lý và thực tiễn đang diễn ra trong đời sống kinh tế, chính trị Việt Nam.
2.3. Phát triển kinh tế tư nhân là tuân theo quy luật, là chủ trương nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam
Về bản chất, KTTN tức là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, kể từ sau chế độ cộng sản nguyên thủy cho đến nay. Trong mô hình kinh tế của các quốc gia XHCN vẫn có sự tồn tại của KTTN nếu nhìn nhận trên góc độ sở hữu cá nhân; ngay trong chính mô hình kinh tế tập trung của Việt Nam vẫn còn kinh tế hộ, cá thể. Do đó, với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, chưa thể xây dựng được quan hệ sản xuất thuần nhất, chủ trương phát triển KTTN của Đảng ta đã tuân theo quy luật kinh tế khách quan và phản ánh đúng lôgíc của sự phát triển.
Từ việc nhận thức quy luật và vận dụng quy luật đó vào chính sách phải có quá trình và dựa theo bối cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của quốc gia. Trên tinh thần đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương phát triển thành phần KTTN, dựa vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước để đưa ra chính sách phù hợp theo từng giai đoạn cụ thể.
Khi bắt đầu đổi mới, thực hiện theo chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin: “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”(2), tuy chưa đề cập nhiều nhưng đây là bước đi đầu tiên tạo cơ sở cho các chủ trương tiếp theo của Đảng. Đại hội VII đã chỉ rõ: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước; trong đó kinh tế cá thể và tiểu chủ có phạm vi hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa có điều kiện tổ chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức”(3).
Qua quá trình phát triển, khi bối cảnh và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước thay đổi, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18-3-2002 về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Đặc biệt, Đại hội X (năm 2006) đã tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển của thành phần KTTN “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”(4), “Phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân… Xóa bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”(5).
Tiếp đó, Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03-6-2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tạo ra xung lực mới thúc đẩy thành phần KTTN phát triển. Đại hội XIII của Đảng đã thực sự xóa bỏ mọi định kiến và nhất quán chủ trương đối với thành phần kinh tế này: “thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo… Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn”(6). Đặc biệt, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã chỉ rõ “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia…Xoá bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân Việt Nam”(10)
Những chủ trương đó là minh chứng cho sự nhất quán của Đảng ta trong chính sách phát triển thành phần KTTN, giúp đỡ thành phần kinh tế này ngày càng lớn mạnh, phù hợp với tình hình, điều kiện, bối cảnh và trình độ phát triển của đất nước.
Việt Nam luôn hướng đến phát triển xã hội văn minh, tốt đẹp; “lấy con người làm trung tâm” là tôn chỉ, mục tiêu của quá trình phát triển. Theo đó, tinh thần thượng tôn pháp luật, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật được coi là một trong những nguyên tắc cốt lõi để xây dựng xã hội XHCN, điều này được thể hiện trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, mọi thành phần kinh tế là bộ phận cấu thành của một chỉnh thể kinh tế thống nhất, mặc dù đảm nhận những vị trí, đóng vai trò khác nhau, nhưng luôn được đối xử bình đẳng, tạo mọi điều kiện thuận lợi để hoạt động sản xuất kinh doanh, điều này được khẳng định rất rõ trong các văn kiện của Đảng. Đại hội VIII nêu rõ: “đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh”(7); các kỳ đại hội tiếp theo, Đảng ta đã khẳng định: “bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế… Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”(8).
Thực hiện nhất quán chủ trương đó, hệ thống pháp luật cũng được xây dựng để bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Điều 22 của Hiến pháp năm 1992 quy định rõ “Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ”; Điều 51 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”.
Để mọi hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế hoạt động có công cụ bảo vệ tính bình đẳng đó, Điều 5 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho khối doanh nghiệp tư nhân thuộc thành phần KTTN phát triển như: Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; các chính sách hỗ trợ, ưu đãi về vốn, tín dụng, giảm lãi suất… Đặc biệt, để khắc phục hậu quả của đại dịch Covid-19, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 ngày 30-10-2021 về một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của đại dịch Covid-19. Chính phủ ban hành nhiều chính sách hỗ trợ bao gồm: giảm thuế giá trị gia tăng, gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, tăng chi phí đầu tư từ ngân sách…
Như vậy, không có sự “phân biệt đối xử” khi tất cả các chính sách hỗ trợ trên đều hướng vào khu vực doanh nghiệp tư nhân, lao động trong khối doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này.
2.4. Cần xóa tan luận điệu xuyên tạc Việt Nam đang “phân biệt đối xử” với thành phần kinh tế tư nhân
Trong xã hội văn minh, không có chỗ cho những hành vi đi ngược lại những quy tắc, luật lệ, chuẩn mực giá trị tốt đẹp mà con người hướng đến, những hành vi đó phải bị nghiêm trị là điều tất yếu. Tổng kết những kết quả đạt được trong gần 40 năm đổi mới toàn diện đất nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”(8). Từ chủ trương, đường lối của Đảng đến chính sách, pháp luật Nhà nước đều cho thấy, thành phần KTTN được đối xử hoàn toàn bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, không có sự “phân biệt đối xử” trong đời sống kinh tế, chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, các thế lực phản động, thù địch đã lợi dụng để xuyên tạc tác động đến tâm lý một bộ phận trong xã hội, gây bất ổn kinh tế - xã hội.
Để đập tan luận điệu xuyên tạc và sai trái của các thế lực thù địch, phản động, phải đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng, nền tảng mạng xã hội để người dân hiểu rõ bản chất của vấn đề.
Đối với đội ngũ doanh nhân, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10-10-2023 về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới, với quan điểm hết sức rõ ràng: “Xây dựng, tôn vinh, cổ vũ đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật, góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Việc xử lý một vài cá nhân chủ doanh nghiệp trong thời gian gần đây không phản ánh bản chất và không đại điện cho toàn bộ chủ doanh nghiệp thuộc thành phần KTTN; việc xử lý đó là cần thiết để thiết lập môi trường kinh doanh lành mạnh, văn minh, thượng tôn pháp luật.
3. Kết luận
Qua phân tích và luận chứng về thực tiễn, chính trị, pháp lý nêu trên cho thấy, “không có sự phân biệt đối xử” nào đối với thành phần KTTN nói riêng và các thành phần kinh tế khác nói chung. Phát triển KTTN là chủ trương nhất quán, lâu dài, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan và điều kiện, hoàn cảnh và trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam qua từng nấc thang, giai đoạn cụ thể của đất nước. Vì vậy, cần đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động, nhằm tạo dư luận đồng thuận, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng, hoàn thiện mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng, Nhà nước, nhân dân đang tiến hành.
_________________
Ngày nhận: 14-1-2025; Ngày bình duyệt: 3-5-2025; Ngày duyệt đăng: 22-5-2025.
Email tác giả: tampvhn@yahoo.com
(1) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Tài liệu Hội thảo “Đổi mới toàn diện quản lý nhà nước trong phát triển KTTN ở Việt Nam”, ngày 12-3-2022
(2), (3), (7) ĐCSVN: Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới, Phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.56, 394, 643.
(4), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới, Phần II (Đại hội X, XI, XII), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.62, 105.
(6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.240.
(8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.105
(9) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.26
(10). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân