Diễn đàn

Xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam - Thuận lợi và khó khăn, thách thức

13/11/2025 19:45

(LLCT)- Trong bối cảnh toàn cầu hóa và các vấn đề kinh tế, xã hội, an ninh ngày càng phức tạp như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, bất bình đẳng thu nhập, hay khủng hoảng tài chính, câu hỏi về mức độ và phạm vi can thiệp của nhà nước càng trở nên cấp thiết. Thực tế cho thấy, không có một mô hình lý thuyết nào có thể áp dụng cứng nhắc cho mọi quốc gia. Mỗi nước cần căn cứ vào điều kiện lịch sử, trình độ phát triển, mục tiêu chiến lược để lựa chọn mô hình phù hợp. Bài viết trình bày một số quan điểm về nhà nước kiến tạo phát triển, làm rõ những thuận lợi và khó khăn, thách thức trong xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam hiện nay.

TS NGUYỄN THỊ TỐ UYÊN
Viện Nhà nước và pháp luật,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Thủ tướng Chính phủ chủ trì cuộc họp của Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ. Ảnh: VGP

1. Mở đầu

Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng, chuyển đổi số, kinh tế tri thức và các vấn đề an ninh phi truyền thống (biến đổi khí hậu, dịch bệnh, đứt gãy chuỗi cung ứng) diễn biến phức tạp, yêu cầu đổi mới mô hình quản trị quốc gia theo hướng hiệu quả, minh bạch và hướng tới người dân ngày càng trở nên cấp thiết. Hiện nay, nhiều quốc gia đã lựa chọn mô hình nhà nước kiến tạo phát triển (developmental state) - một hình thái nhà nước biết thiết kế thể chế, định hướng chiến lược và phối hợp nguồn lực xã hội - thị trường để thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Ở Việt Nam, tinh thần “Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động, phục vụ” đã được khẳng định và từng bước thể chế hóa trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp năm 2013 và hệ thống pháp luật liên quan. Tuy vậy, giữa chủ trương và thực thi vẫn còn khoảng cách: thể chế chưa thật đồng bộ, năng lực thực thi chính sách chưa đồng đều, cơ chế phối hợp - kiểm soát quyền lực và trách nhiệm giải trình còn những điểm nghẽn.

2. Nội dung

2. 1. Qúa trình phát triển quan điểm về nhà nước kiến tạo phát triển

Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển quan điểm về vai trò của Nhà nước đã có nhiều thay đổi. Tư tưởng của trường phái cổ điển, tiêu biểu là Adam Smith với hình ảnh “bàn tay vô hình”, cho rằng thị trường có cơ chế tự điều tiết hiệu quả nếu không bị can thiệp, nhà nước chỉ nên giới hạn vai trò của mình trong ba lĩnh vực: bảo vệ an ninh, duy trì pháp luật và cung cấp một số hàng hóa công cộng mà khu vực tư nhân không thể hoặc không muốn cung cấp.

Ở chiều ngược lại, những phát hiện của John Meynard Keynes (1884-1946) lại cho rằng, nhà nước cần đưa ra những chính sách điều chỉnh kinh tế và can thiệp vào quá trình sản xuất để hạn chế khủng hoảng, thất nghiệp do chính thị trường gây ra mà nó không thể tự giải quyết.

Sự khác biệt giữa hai trường phái này không chỉ dừng lại ở mặt lý luận, mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến cách thức tổ chức và vận hành nền kinh tế tại các quốc gia. Trong khi nhiều nước phát triển theo hướng thị trường tự do như Mỹ, Anh có xu hướng thu hẹp vai trò của nhà nước, thì các quốc gia Bắc Âu lại thành công với mô hình “nhà nước phúc lợi”, nơi chính phủ đóng vai trò chủ động trong việc điều phối kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội.

Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, các lý thuyết kinh tế như chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa tiền tệ và các học thuyết về an ninh quốc gia đã bắt đầu định hình vai trò của nhà nước trong việc can thiệp và dẫn dắt nền kinh tế. Tuy nhiên, những cách tiếp cận này còn thiếu hệ thống và chưa hình thành một mô hình nhà nước phát triển cụ thể nào. Phải đến cuối thế kỷ XX, khái niệm “developmental state” - “nhà nước kiến tạo phát triển” mới được xác lập một cách rõ ràng trong giới học thuật toàn cầu.

Thuật ngữ “developmental state” lần đầu tiên được giới thiệu bởi học giả Chalmers Johnson trong “MITI and the Japanese Miracle: The Growth of Industrial Policy, 1925-1975” xuất bản năm 1982. Trong nghiên cứu này, Johnson đã phân tích sự thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản từ một quốc gia bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, trở thành cường quốc công nghiệp vào thập niên 1970. Ông cho rằng, thành công đó không thể lý giải đầy đủ nếu chỉ dựa trên lý thuyết thị trường tự do hay mô hình kế hoạch hóa tập trung. Thay vào đó, Johnson chỉ ra rằng, Nhật Bản đã áp dụng một mô hình trung gian - mô hình nhà nước kiến tạo phát triển (developmental state).

Theo Johnson, nhà nước kiến tạo phát triển là một hình thức đặc biệt, nằm giữa hai cực: kinh tế thị trường tự do (như Mỹ) và kinh tế kế hoạch hóa tập trung (như Liên Xô cũ)(1). Mô hình này có những đặc trưng nổi bật: (1) Bộ máy hành chính tinh gọn nhưng có năng lực cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn và tính chuyên nghiệp cao; (2) Hệ thống chính trị ổn định, hoạt động hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi để các chính sách phát triển được ban hành và thực thi nhất quán; (3) Nhà nước đóng vai trò định hướng và dẫn dắt, can thiệp vào nền kinh tế bằng các chính sách công nghiệp chiến lược - không phải để thay thế thị trường, mà để thúc đẩy những lĩnh vực then chốt, định hình cấu trúc kinh tế tương lai; (4) Sự tồn tại của các cơ quan đặc thù như MITI (Bộ Công nghiệp và Thương mại Quốc tế) - nơi tập trung hoạch định và điều phối chính sách công nghiệp của Nhật Bản, với quyền lực lớn và khả năng phối hợp hiệu quả với khu vực tư nhân(2).

Từ đó, Chalmers Johnson đã gọi Nhật Bản là một “developmental state” - không chỉ để mô tả mô hình tăng trưởng cụ thể, mà còn để nhấn mạnh sự khác biệt căn bản so với các mô hình đang thống trị vào thời điểm đó. Ý tưởng này sau đó đã trở thành nền tảng cho hàng loạt nghiên cứu về các nền kinh tế như Hàn Quốc, Xinhgapo - những quốc gia cũng áp dụng thành công mô hình nhà nước kiến tạo để thúc đẩy công nghiệp hóa nhanh và hiệu quả.

Khái niệm “developmental state” vì thế đã trở thành một đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận kinh tế chính trị hiện đại. Mô hình cho phép mở rộng cách nhìn về vai trò của nhà nước - không chỉ như một người giám sát hay phân bổ tài nguyên, mà là một chủ thể năng động, có năng lực tổ chức, định hướng và thúc đẩy phát triển. Mô hình này đến nay vẫn tiếp tục được nghiên cứu và vận dụng tại nhiều quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam - nơi tư duy về một nhà nước kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động đang dần định hình rõ nét hơn trong chính sách và quản trị quốc gia.

Nhiều học giả đã tiếp tục phát triển và đưa ra các định nghĩa khác nhau về “nhà nước kiến tạo phát triển” (developmental state). Rostow cho rằng, “nhà nước kiến tạo phát triển là một nhà nước có quyền lực và được tổ chức hợp lý để đạt được các mục tiêu phát triển”(3); H. Schimz cho rằng, đây là nhà nước có năng lực thiết kế và thực thi các mục tiêu phát triển theo cách thức áp đặt và chuyên chế nhằm tạo ra sự tăng trưởng kinh tế(4); Vincent Wei-cheng Wang cho rằng, nhà nước kiến tạo phát triển phải là một nhà nước đặt ưu tiên hàng đầu cho phát triển kinh tế và để đạt được mục tiêu đó, nhà nước phải định hướng, đặt ra quy tắc, điều phối, phân bổ nguồn lực hợp lý để can thiệp vào thị trường(5).

Tại Việt Nam, tư duy về nhà nước kiến tạo phát triển đã từng bước được hình thành và khẳng định trong quá trình đổi mới và hội nhập. Từ Đại hội VI năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển đổi sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong bối cảnh đó, vai trò của Nhà nước không còn là chủ thể bao cấp, trực tiếp điều hành sản xuất như trước, mà dần chuyển sang vai trò kiến tạo môi trường, định hướng và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế phát triển. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: “Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế - xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại”(6).

Quan điểm đó tiếp tục được kế thừa và phát triển trong các kỳ Đại hội X, XI, XII, XIII. Trong mỗi giai đoạn, tư duy về nhà nước kiến tạo được bổ sung phù hợp với bối cảnh mới của đất nước. Tại Đại hội XII (năm 2016), lần đầu tiên khái niệm “Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động, phục vụ nhân dân” được nhấn mạnh và trở thành phương châm. Đây là bước tiến quan trọng, thể hiện sự chuyển đổi rõ rệt từ Chính phủ quản lý sang Chính phủ phục vụ, hướng tới nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.

Những định hướng đó được thể chế hóa trong nhiều văn bản pháp luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh… Trong đó, các quy định pháp lý ngày càng hướng đến việc giảm rào cản kinh doanh, bảo đảm quyền tự do đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân - động lực quan trọng của tăng trưởng. Đồng thời, nhiều cải cách hành chính đã được thực hiện nhằm tăng tính minh bạch, nâng cao hiệu quả công vụ, thúc đẩy số hóa và chuyển đổi số trong bộ máy quản lý nhà nước.

Mô hình nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam đang ngày càng được cụ thể hóa thông qua bốn trọng tâm chính trong cách thức tổ chức và điều hành của Chính phủ, cụ thể:

Thứ nhất, Chính phủ đóng vai trò chủ động trong việc thiết kế và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, thể chế kinh tế. Đây là nhiệm vụ then chốt nhằm bảo đảm nền kinh tế vận hành trên một khung khổ pháp lý minh bạch, ổn định, có khả năng thích ứng cao với bối cảnh quốc tế và yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Một thể chế tốt chính là nền tảng để nuôi dưỡng, phát triển các động lực tăng trưởng mới như đổi mới sáng tạo, kinh tế số, và kinh tế xanh.

Thứ hai, Nhà nước không can thiệp một cách sâu sắc vào các hoạt động mà thị trường có thể tự điều tiết, đặc biệt là những lĩnh vực mà doanh nghiệp tư nhân có thể tham gia và làm tốt. Tư duy này thể hiện sự chuyển biến rõ rệt từ mô hình quản lý cũ sang mô hình điều phối và hỗ trợ. Nhà nước tập trung nguồn lực vào những lĩnh vực mà khu vực tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư, như phát triển hạ tầng chiến lược, nghiên cứu khoa học cơ bản, giáo dục công, y tế công, an sinh xã hội.

Thứ ba, một trong những tiêu chí đánh giá hiệu quả của nhà nước kiến tạo là khả năng tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch, công bằng và cạnh tranh. Mục tiêu đặt ra không chỉ là duy trì vị thế hàng đầu trong khu vực ASEAN mà còn tiến tới đạt các tiêu chuẩn cao của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Điều này đòi hỏi phải tiếp tục cải cách hành chính, cắt giảm chi phí không chính thức, nâng cao chất lượng dịch vụ công và tăng cường đối thoại công - tư.

Thứ tư, một nhà nước kiến tạo không chỉ dừng ở việc hoạch định chính sách mà còn phải bảo đảm năng lực thực thi hiệu quả. Điều này đòi hỏi Chính phủ phải trở thành một “Chính phủ hành động”, nói đi đôi với làm, siết chặt kỷ cương, kịp thời thay thế những cán bộ không đáp ứng yêu cầu công việc. Đồng thời, việc hiện đại hóa bộ máy hành chính thông qua xây dựng chính quyền điện tử, thúc đẩy thương mại điện tử, tòa án điện tử và các dịch vụ công trực tuyến cũng là những bước đi cần thiết để nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia và phục vụ người dân, doanh nghiệp tốt hơn.

2.2. Thuận lợikhó khăn, thách thức trong xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển tại Việt Nam

Thuận lợi

Một trong những thuận lợi quan trọng nhất trong quá trình xây dựng nhà nước kiến tạo tại Việt Nam chính là sự tương thích giữa các yêu cầu nội tại của mô hình nhà nước kiến tạo phát triển với định hướng chiến lược và xu thế cải cách mà Việt Nam đã và đang hướng tới trong quá trình đổi mới. Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng với yêu cầu cải cách thể chế toàn diện không chỉ là những điều kiện khách quan thúc đẩy mà còn là nội dung cốt lõi, công cụ vận hành và mục tiêu căn bản của mô hình chính phủ kiến tạo.

Các nguyên tắc như thượng tôn pháp luật, đề cao vai trò của nhân dân trong xây dựng và giám sát quyền lực nhà nước, quản trị công khai - minh bạch - trách nhiệm giải trình cao… đã được xác lập rõ ràng trong các văn kiện Đại hội Đảng từ Đại hội XI. Những nội dung này định hình tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, được cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 2013 và hệ thống các văn bản pháp luật liên quan. Đồng thời, quá trình đàm phán, ký kết và thực thi các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng tạo áp lực tích cực buộc Chính phủ phải đẩy mạnh cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh theo chuẩn mực quốc tế, hướng đến một nền quản trị công hiện đại, hiệu quả.

Một thuận lợi lớn khác là sự nhất quán trong thông điệp và quyết tâm chính trị ở cấp cao nhất của Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần khẳng định quyết tâm xây dựng Chính phủ hành động, liêm chính, sáng tạo, phục vụ người dân và doanh nghiệp. Thông điệp này đã góp phần củng cố niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp vào sự đồng hành, hỗ trợ của Nhà nước, đồng thời tạo động lực cho các cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương chủ động đổi mới tư duy và phương thức làm việc.

Công cuộc cải cách hành chính trong những năm qua đã ghi nhận những bước tiến đáng khích lệ. Bộ máy nhà nước được tinh gọn, cơ cấu tổ chức giảm chồng chéo, phân định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ công được đẩy mạnh tại nhiều bộ, ngành và địa phương, đặc biệt là trong các lĩnh vực trọng yếu như thuế, hải quan, điện lực, đất đai và đầu tư. Một số mô hình cải cách đã được triển khai như thành phố thông minh (ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng), trung tâm hành chính công một cửa, chỉ số hài lòng người dân (SIPAS), cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3 và 4, trả kết quả giải quyết thủ tục tận nhà… Tuy chưa được triển khai đồng bộ trên cả nước, nhưng những mô hình này là nền tảng thực tiễn quan trọng để nhân rộng và lan tỏa tư duy hành chính phục vụ.

Bên cạnh đó, những nỗ lực mang tính đột phá về cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời gian gần đây đã đánh dấu một bước chuyển rõ nét trong tư duy phát triển của bộ máy nhà nước, thể hiện xu hướng dịch chuyển từ “quản lý nhà nước” sang “quản trị nhà nước”. Đặc biệt, việc triển khai Luật Tổ chức chính quyền địa phương, hoàn thiện mô hình bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; thực hiện tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức… là những bước đi cần thiết nhằm tăng tính tự chủ, hiệu lực và hiệu quả của bộ máy công quyền.

Cùng với đó, Chính phủ đã chú trọng phân cấp, phân quyền một cách mạnh mẽ, rõ ràng và sát với thực tiễn. Nguyên tắc “việc gì cấp nào quản lý hiệu quả hơn thì giao cho cấp đó” đã được đưa vào định hướng điều hành, góp phần khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán trong quản lý nhà nước giữa các cấp, các ngành. Điều này không chỉ nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương mà còn góp phần xây dựng một hệ thống quản trị thống nhất, thông suốt, hiệu quả từ trung ương đến cơ sở.

Khó khăn, thách thức

Về thể chế nhà nước

Xét dưới góc độ của mô hình nhà nước kiến tạo phát triển, có thể nhận thấy rằng, Hiến pháp năm 2013, cùng với hệ thống các luật liên quan, đã xác lập vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Trong đó, quyền lực nhà nước bao gồm ba nhánh quyền lực là lập pháp, hành pháp và tư pháp - theo hướng tiếp cận tương đối đầy đủ, phù hợp với chuẩn mực phổ quát của nhà nước pháp quyền hiện đại trên thế giới. Những quy định này phản ánh rõ nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, đồng thời thể hiện cam kết của Việt Nam trong việc xây dựng một nhà nước dân chủ, vì dân và phát triển.

Tuy nhiên, khi đặt trong bối cảnh yêu cầu chuyển đổi mô hình nhà nước theo hướng kiến tạo, phát triển, vẫn còn tồn tại những bất cập nhất định trong việc chế định các chức năng, nhiệm vụ, đặc biệt là trong cách tiếp cận, thiết kế và thực thi chức năng kiến tạo phát triển một cách rõ ràng, hiệu quả.

(1) Các quy định hiện hành trong Hiến pháp và pháp luật đã bao quát được tổng thể các chức năng bao hàm cả chức năng quản lý nhà nước và xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, phần lớn các chế định này chủ yếu nhấn mạnh đến chức năng “quản lý”, “kiểm soát”, “điều hành” hơn là chức năng “kiến tạo phát triển” - tức là vai trò chủ động, dẫn dắt, thiết kế chính sách, thúc đẩy đổi mới, cải cách và sáng tạo để tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

(2) Do quá chú trọng vào chức năng “quản lý nhà nước” theo hướng từ trên xuống mà chưa nhấn mạnh hoặc chế định một cách rõ ràng các trách nhiệm cụ thể của Nhà nước trong việc thúc đẩy sáng tạo, phát triển nguồn lực con người, chuyển đổi số, hỗ trợ doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, hay các biện pháp thúc đẩy tiến bộ khoa học, công nghệ. Những nội dung này vốn là linh hồn của mô hình nhà nước kiến tạo, nhưng chưa được thể hiện một cách đậm nét trong các thiết kế pháp lý hiện nay.

(3) Các chức năng và nhiệm vụ của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp đã có nhiều điểm đổi mới tích cực, thể hiện xu hướng xây dựng nhà nước pháp quyền hiện đại. Tuy nhiên, không ít quy định pháp lý hiện hành vẫn còn mang nặng “dấu ấn” của cơ chế hành chính tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây. Những chế định này vẫn đặt nặng quyền lực quản lý, điều hành của Nhà nước, trong khi lại chưa làm rõ một cách đầy đủ và đồng bộ các yếu tố then chốt như: quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm và đặc biệt là trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước. Đây là một khoảng trống pháp lý và thực tiễn cần được khắc phục, bởi tính minh bạch và cơ chế giải trình rõ ràng là yêu cầu cốt lõi của một nhà nước kiến tạo phát triển.

Xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển là yêu cầu khách quan và là xu thế tất yếu của tiến trình đổi mới quản trị quốc gia ở Việt Nam hiện nay.

Trước những chuyển biến nhanh chóng của thời đại, đặc biệt là xu hướng toàn cầu hóa, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nhu cầu phát triển bền vững, rõ ràng cần có một bước đột phá trong việc thiết kế lại chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, nhằm chuyển mạnh từ “mệnh lệnh - phục tùng” sang “kiến tạo - phát triển”. Điều này đòi hỏi sự cụ thể hóa, bổ sung các nội dung pháp lý về trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ đổi mới sáng tạo, cải thiện chất lượng thể chế, phát triển nhân lực chất lượng cao, và tạo lập các hệ sinh thái phát triển trên cả ba trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường.

Như vậy, về mặt thể chế, mặc dù hệ thống pháp luật hiện hành đã bao quát được chức năng cốt lõi của Nhà nước trong tổ chức và điều hành xã hội, nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng đầy đủ yêu cầu của mô hình nhà nước kiến tạo phát triển. Việc đổi mới cách tiếp cận, điều chỉnh và nâng cấp các chế định pháp lý liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp là một yêu cầu bức thiết, nhằm cụ thể hóa sứ mệnh của Nhà nước không chỉ là người điều hành, mà còn là người đồng hành, kiến tạo và thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đất nước trong bối cảnh mới.

Về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước

Về mặt thực tiễn, trong hoạt động của nhà nước còn bộc lộ một số điểm hạn chế sau:

Thứ nhất, việc thiết kế và vận hành hệ thống quyền lực nhà nước theo các nguyên tắc hiến định như: “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”(7); “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp”(8)… tuy đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 nhưng vẫn chưa được cụ thể hóa đầy đủ và thực thi một cách hiệu quả. Việc thiếu cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực rõ ràng, đồng bộ đã dẫn đến tình trạng quyền lực bị lạm dụng, hiệu lực thực thi bị suy giảm, làm hạn chế vai trò kiến tạo của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân và phát triển bền vững.

Thứ hai, hệ thống pháp luật, thể chế, chính sách còn thiếu tính đồng bộ, chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn và sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhiều chính sách ban hành còn nặng về mục tiêu quản lý, thiếu tầm nhìn chiến lược, hoặc không rõ ràng trong phương thức thực hiện, dẫn đến tình trạng chồng chéo, xung đột trong triển khai. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường đầu tư, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững.

Thứ ba, chức năng “kiến tạo phát triển” - với trọng tâm là xây dựng thể chế, chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo, thúc đẩy công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chưa được chú trọng tương xứng. Chiến lược và quy hoạch phát triển còn thiếu tính dài hạn, thiếu căn cứ khoa học và không gắn chặt với yêu cầu phát triển thị trường. Trong khi đó, năng lực về nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo còn thấp; cơ chế, chính sách khuyến khích chưa hấp dẫn, thiếu sự gắn kết giữa doanh nghiệp, Nhà nước và các viện, trường.

Thứ tư, tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, phức tạp, nhiều tầng nấc trung gian không cần thiết. Việc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương chưa rõ ràng, dẫn đến hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, hoặc trùng lặp trong chức năng, nhiệm vụ. Mối liên kết giữa các bộ, ngành, địa phương còn yếu, thiếu một hệ thống quản trị liên thông, tích hợp để tạo ra sức mạnh chung phục vụ phát triển.

Thứ năm, nền hành chính công còn mang nhiều tính chất quan liêu, thủ tục hành chính phức tạp, thiếu minh bạch. Tình trạng “trên nóng dưới lạnh”, hay các hiện tượng “hành chính hóa”, “xin - cho”, thậm chí tham nhũng vặt… vẫn tồn tại, gây cản trở sự năng động của thị trường và làm suy yếu lòng tin của doanh nghiệp và người dân vào bộ máy công quyền.

Thứ sáu, Nhà nước vẫn chưa tách biệt rõ vai trò quản lý nhà nước với vai trò của doanh nghiệp. Việc can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào thị trường thông qua các doanh nghiệp nhà nước hoặc quyết định hành chính thiếu minh bạch đã làm méo mó cơ chế cạnh tranh lành mạnh, giảm hiệu quả phân bổ nguồn lực, tạo ra rào cản lớn cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.

Thứ bảy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu của nhà nước kiến tạo phát triển. Việc bổ nhiệm, sử dụng nhân sự trong một số trường hợp vẫn còn chưa thực sự dựa trên năng lực, đạo đức và thành tích công tác. Hệ thống đánh giá, kiểm tra, giám sát cán bộ còn hình thức, thiếu minh bạch, chưa tạo động lực để đội ngũ cán bộ, công chức phấn đấu vì hiệu quả công vụ.

Thứ tám, cơ chế trách nhiệm giải trình trong bộ máy nhà nước còn yếu. Cán bộ, công chức còn thiếu trách nhiệm với nhân dân, biểu hiện ở thái độ cửa quyền, vô cảm, hoặc giải quyết công việc theo kiểu đối phó. Việc thiếu cơ chế buộc người thực thi công vụ phải chịu trách nhiệm cụ thể trước dân, trước pháp luật đã làm giảm hiệu quả quản trị công, dẫn đến sự mất niềm tin trong xã hội.

Cùng với đó là những khó khăn, thách thức xuất phát từ đặc trưng của kinh tế - văn hóa Việt Nam mang đậm dấu ấn của một xã hội đang chuyển mình sâu sắc; những ảnh hưởng sâu sắc của cơ chế tập trung, quan liêu, mệnh lệnh cản trở cho tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển nền hành chính hiện đại. Đó là lối làm việc cảm tính, thiếu kỷ luật; tâm lý bình quân, ngại va chạm; thói quen xử lý công việc theo cảm tính hơn là theo lý lẽ pháp luật; xu hướng coi trọng quan hệ cá nhân, nể nang, trọng tuổi tác và kinh nghiệm hơn năng lực thực chất; làm việc khép kín, ngại tiếp thu cái mới và thiên về giải quyết sự vụ trong nội bộ thay vì công khai, minh bạch theo pháp luật… Những yếu tố này, dù bắt nguồn từ môi trường sống truyền thống, vẫn đang tác động không nhỏ đến cách thức vận hành của bộ máy hành chính và đời sống chính trị - pháp lý hiện đại ở nước ta hiện nay.

2.3. Định hướng giải pháp xây dựng, hoàn thiện Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam

Bối cảnh hiện nay đặt ra yêu cầu xây dựng mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam trên cơ sở phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tiễn trong nước và xu thế phát triển của thời đại. Theo đó, một số phương hướng giải pháp xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam là:

Thứ nhất, xây dựng thể chế kiến tạo phát triển là nhiệm vụ trung tâm, cần được thể hiện bằng việc xây dựng một hệ thống thể chế có khả năng dẫn dắt, định hướng phát triển đất nước dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và tri thức. Thể chế này cần đề cao vai trò của người dân không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà còn là chủ thể kiến tạo, từ đó khơi dậy khát vọng phát triển, củng cố lòng tin và sự đồng thuận xã hội. Thể chế kiến tạo cũng cần khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản.

Thứ hai, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phải đi kèm với khả năng thích ứng và đổi mới, bảo đảm vừa có tính ổn định, vừa có tính linh hoạt. Pháp luật cần được xây dựng trên nền tảng khoa học, có sự tham vấn rộng rãi từ người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội để phản ánh đúng thực tiễn, từ đó hạn chế khoảng cách giữa chính sách và thực thi. Đồng thời, phải tăng cường cơ chế hậu kiểm, rà soát, sửa đổi chính sách không còn phù hợp.

Thứ ba, cần tiếp tục hoàn thiện bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả. Quy định pháp luật phải được cụ thể hóa trong từng vị trí công vụ, tránh chồng chéo, mâu thuẫn, bảo đảm cán bộ công chức chỉ thực hiện các hành vi trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quản lý nhà nước nhằm hạn chế sự tùy tiện, chủ quan trong thực thi công vụ.

Thứ tư, cơ chế kiểm soát quyền lực phải mang tính hệ thống, liên thông và độc lập giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và người dân. Cơ chế kiểm tra, giám sát nội bộ cũng cần được xây dựng đồng bộ, có hiệu quả thực chất, không hình thức.

Thứ năm, Nhà nước cần xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng bộ, hiện đại, trong đó vai trò của Nhà nước là tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, công bằng, minh bạch, thúc đẩy cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng và khắc phục các thất bại thị trường. Chính phủ cần đóng vai trò là “nhà thiết kế thể chế” và “bà đỡ phát triển”, đồng hành cùng doanh nghiệp và người dân thay vì can thiệp hành chính vào hoạt động kinh tế.

Thứ sáu, thực hiện phân quyền, phân cấp mạnh mẽ gắn với cơ chế kiểm soát, giám sát và chế tài rõ ràng, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương phát huy tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Cần đổi mới phương thức đánh giá hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương dựa trên kết quả và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp.

Thứ bảy, trách nhiệm giải trình phải trở thành nguyên tắc bắt buộc trong hoạt động công vụ, từ xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện đến đánh giá kết quả. Cần thiết lập cơ chế báo cáo công khai, minh bạch các quyết định quản lý nhà nước, đặc biệt là các vấn đề tác động trực tiếp đến quyền lợi người dân. Trách nhiệm cá nhân phải được phân định rõ trong từng vị trí lãnh đạo và hành chính.

Thứ tám, hội nhập quốc tế phải đi đôi với phát triển nền kinh tế và hệ thống quản lý nhà nước. Thể chế hội nhập cần được xây dựng toàn diện, bảo đảm năng lực thực thi cam kết quốc tế, đồng thời chủ động định hình vai trò của Việt Nam trong các cơ chế hợp tác khu vực và toàn cầu. Cần đặc biệt quan tâm đến chuyển giao công nghệ, phát triển nhân lực chất lượng cao và chuẩn hóa thể chế theo thông lệ quốc tế.

Thứ chín, đổi mới cơ chế vận hành nhà nước theo hướng “quản trị phát triển”, lấy kết quả phát triển làm tiêu chí đánh giá. Tăng cường áp dụng các nguyên tắc quản trị hiện đại như quản trị dựa trên kết quả, quản trị minh bạch, quản trị số. Nhà nước cần thường xuyên tổ chức đối thoại chính sách với các bên liên quan, bảo đảm tiếng nói của người dân, doanh nghiệp được tiếp nhận, phản hồi và phản ánh vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách công.

3. Kết luận

Xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển là yêu cầu khách quan và là xu thế tất yếu của tiến trình đổi mới quản trị quốc gia ở Việt Nam hiện nay. Đây không chỉ là một mô hình tổ chức quyền lực nhà nước, mà còn là phương thức quản trị hiện đại - nơi Nhà nước đóng vai trò “kiến tạo thể chế”, “thúc đẩy phát triển” và “phục vụ nhân dân”. Quá trình này diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng, chuyển đổi số và kinh tế tri thức, đòi hỏi Việt Nam phải vừa kế thừa kinh nghiệm quốc tế, vừa sáng tạo các giải pháp phù hợp với đặc điểm thể chế chính trị và điều kiện phát triển trong nước.

Thực tiễn 40 năm đổi mới cho thấy, những nỗ lực cải cách thể chế, tinh gọn bộ máy, đẩy mạnh phân cấp, chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ điện tử và Chính phủ phục vụ đã tạo nền tảng quan trọng để hiện thực hóa mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển. Tuy nhiên, vẫn còn không ít thách thức, như thể chế chưa thật đồng bộ, chất lượng công vụ và trách nhiệm giải trình chưa cao, cơ chế phối hợp liên ngành còn hạn chế, và văn hóa hành chính vẫn chịu ảnh hưởng của tư duy bao cấp.

Để tiến tới Nhà nước kiến tạo phát triển thực chất, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp lý, nâng cao năng lực điều hành và đạo đức công vụ, phát huy cơ chế giám sát xã hội, đồng thời xây dựng văn hóa quản trị liêm chính, minh bạch, hướng đến kết quả và lấy người dân làm trung tâm của mọi chính sách.

_________________

Ngày nhận bài: 2-7-2025; Ngày bình duyệt: 10-11-2025; Ngày duyệt đăng: 12-11-2025.

Email tác giả: uyenhcma@gmail.com

(1) Kinh tế Nhật Bản giai đoạn phát triển thần kỳ, http://vijaexpress.com/kinh-te-nhat-ban-giai-doan-phat-trien-than-ky

(2) Chalmers Johnson (1982), MITI and the japanese miracle, Stanford, Stanford - University Press, CA

(3) H. Schimiz: State Capacity and Donor Proliferation. Sussex: Institute of Development Studies, 2005;

(4), (5) Vincent Wei-cheng Wang: Globalization and the Developmental State:Reflections on the Asian Financial Crisis, 2002

(6) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.60, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.193.

(7) Điều 2 Hiến pháp năm 2013.

(8) Khoản 2, Điều 3 Hiến pháp năm 2013.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam - Thuận lợi và khó khăn, thách thức
    POWERED BY