Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Phản bác luận điệu xuyên tạc “Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu và lối thoát cho tương lai”

09/10/2025 14:34

(LLCT) - Sau 50 năm thống nhất đất nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách phủ nhận, tung những luận điệu xuyên tạc, bóp méo, thiếu khách quan, như: “Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu và lối thoát cho tương lai”. Dưới danh nghĩa phản biện xã hội, không ít cá nhân, tổ chức đã lợi dụng luận điệu này để phủ nhận thành quả cách mạng, xuyên tạc lịch sử, hạ thấp vị thế đất nước và gieo rắc tâm lý hoài nghi trong xã hội, đặc biệt với giới trẻ. Bài viết góp phần nhận diện và phản bác luận điệu trên, qua đó làm sáng tỏ con đường phát triển đúng đắn, độc lập và bền vững mà Việt Nam đang kiên trì theo đuổi.

ThS NHỮ VĂN DUY
Trường Đại học An ninh nhân dân, Bộ Công an

Xuân của kỷ nguyên vươn mình | Báo Đấu thầu
Nửa thế kỷ sau thống nhất, Việt Nam từng bước vươn lên, trở thành một đất nước năng động, có vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, giữ vững ổn định chính trị, xã hội và lòng dân_Ảnh: IT

1. Mở đầu

Năm 2025 ghi dấu tròn nửa thế kỷ kể từ ngày non sông thu về một mối - một cột mốc lịch sử thiêng liêng nhắc nhớ thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Trải qua 50 năm xây dựng, bảo vệ và phát triển trong điều kiện xuất phát điểm thấp, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, bao vây, cấm vận kéo dài, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước đã từng bước vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức, vươn lên đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực.

Tuy nhiên, cùng với tiến trình phát triển ấy, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước không ngừng gia tăng các hoạt động chống phá với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Gần đây, tổ chức phản động đã tung ra cái gọi là “văn kiện 50” với luận điệu xuyên tạc trắng trợn: “Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu và lối thoát cho tương lai”. Đây là sự phủ nhận những thành quả cách mạng, xuyên tạc lịch sử và thực tiễn phát triển đất nước, là âm mưu thâm độc nhằm gieo rắc tâm lý hoài nghi, bi quan trong xã hội, đặc biệt đối với thế hệ trẻ, từ đó kích động tư tưởng chống đối, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự ổn định chính trị của đất nước.

Bài viết nhận diện, vạch trần bản chất phản động, sai trái, thù địch và nguy hiểm của luận điệu trên; đồng thời cung cấp các luận cứ khoa học, thực tiễn để khẳng định con đường phát triển độc lập, tự chủ, bền vững mà Việt Nam đang theo đuổi là đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển, lợi ích quốc gia - dân tộc. Qua đó, góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.

2. Nội dung

2.1. Vạch trần luận điệu xuyên tạc: “Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu”

Nhìn về những thắng lợi trong lịch sử của dân tộc, mỗi người dân Việt Nam đều tự hào, tri ân và răn mình phải sống xứng đáng với những cống hiến, hy sinh, mất mát không gì có thể bù đắp được của thế hệ cha ông để chúng ta được hưởng hòa bình như hôm nay. Như Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định “Quá khứ là để ghi nhớ, để tri ân và để rút ra bài học. Tương lai là để cùng nhau xây dựng kiến tạo và phát triển”(1).

Tuy nhiên, sau nửa thế kỷ thống nhất, đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, các thế lực thù địch càng chống phá quyết liệt hơn. Tháng 4-2025, trong một cuộc họp báo tổ chức ở California (Mỹ), tổ chức khủng bố Việt Tân công bố “văn kiện 50” với chủ đề “Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu và lối thoát cho tương lai”. Tại đây, đại diện Việt Tân trong lời khai mạc đã xuyên tạc, bôi đen hiện thực lịch sử Việt Nam: “Ngày 30-4-1975 là ngày đánh dấu sự chìm đắm của cả nước Việt Nam thân yêu và trong vòng cai trị của đảng cộng sản…”. Tiếp ngay sau đó, hàng loạt diễn đàn mạng xã hội, kênh thông tin phản động hay các cá nhân chống đối như Lê Trung Khoa, Nguyễn Văn Đài… ra sức lan truyền nội dung “văn kiện 50”, thêu dệt những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt hòng đạt được mưu đồ chính trị đen tối.

Cái gọi là “văn kiện 50” gồm 03 phần, dài 10 trang, thể hiện cách nhìn nhận phiến diện, mang nặng định kiến và thái độ thù địch sâu sắc.

Phần thứ nhất, nhận định về đất nước sau 50 năm thống nhất, mặc dù Việt Tân tự nhận “đánh giá khách quan” về kinh tế, chính trị, xã hội, nhưng chúng nhận định sau 50 năm, kinh tế Việt Nam đang “tụt hậu”, xã hội Việt Nam đang “rối loạn”, “mất tự do dân chủ”… Để dẫn chứng, chúng so sánh giữa thời điểm năm 1975 với năm 2025 và cho rằng: vào thời điểm 1975, đối mặt với thực trạng chiến tranh, ít nhất một nửa phía Nam của đất nước vẫn ở vị trí phát triển đáng ước ao của một số nước như Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan. Nhưng 50 năm sau, tại thời điểm 2025, người dân Việt lại phải kéo nhau đến xin việc ở những nước này và nhất là liều mạng sống đi tìm cuộc đời mới tại nhiều quốc gia phương Tây. Người Việt Nam vẫn chưa giải quyết nổi các nhu cầu căn bản nhất của xã hội như thực phẩm, nguồn nước sạch, y tế, giáo dục cấp tiểu học. Nhiều mặt xã hội Việt Nam đã và đang xuống cấp trầm trọng từ nền tảng đạo đức đến lối sống, ngay cả so với thời điểm 1975. Với thủ đoạn “bới móc”, “xoáy sâu” vào những bất cập, “khiếm khuyết” còn tồn tại trong xã hội để quy chụp, xuyên tạc bản chất vấn đề hòng phủ nhận những thành tựu to lớn mà đất nước đã đạt được trong công cuộc xây dựng và phát triển, từ đó chúng quy kết rằng “50 năm sau giải phóng miền Nam là nửa thế kỷ tụt hậu của Việt Nam”.

Ở phần thứ hai, các thế lực thù địch đưa ra những luận điệu quy chụp, cho rằng nguyên nhân cốt lõi dẫn đến tình trạng tụt hậu của Việt Nam là do Đảng Cộng sản Việt Nam: “Sự tụt hậu của Việt Nam đến từ nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan, nhưng cốt lõi của sự tụt hậu kéo dài nửa thế kỷ qua, đến từ ba tư duy tai hại của Đảng Cộng Sản Việt Nam”. Chúng tiếp tục xoáy sâu, công kích nền tảng tư tưởng của Đảng, xuyên tạc nguyên nhân đầu tiên là do tư duy độc tài và cố thủ trong “lô cốt Mác - Lênin lỗi thời”. Chúng xuyên tạc mối quan hệ Việt Nam với Trung Quốc, quy kết nguyên nhân thứ ba dẫn đến tình trạng tụt hậu là “quán tính lệ thuộc đàn anh trong khối độc tài - toàn trị”, đặc biệt là Trung Quốc. Sự lệ thuộc này đã khiến Việt Nam mất độc lập, tự chủ, phải luôn luôn dè chừng những phản ứng của Bắc Kinh trong bối cảnh thay đổi địa chính trị khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương.

Ở phần thứ ba, để đưa ra cái gọi là “giải pháp” thoát khỏi tình trạng tụt hậu, Việt Tân giả danh các “nhà dân chủ”, “nhà khoa học”, hay “nhà tư vấn chính sách” để “hiến kế” cho Việt Nam “tìm ra lối thoát”. Đề xuất của chúng không nằm ngoài dự đoán với các luận điệu quen thuộc, như: xây dựng thể chế đa nguyên, đa đảng; thúc đẩy tự do, dân chủ; thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc; bảo vệ chủ quyền, phát triển độc lập và hội nhập quốc tế. Chúng rêu rao rằng: “Đất nước phải bước vào kỷ nguyên mới! Nền tảng của kỷ nguyên này là xây dựng một thể chế tự do, dân chủ tôn trọng nhân quyền, nhân phẩm, chấp nhận đa nguyên và tôn trọng mọi thành phần dân tộc. Nhưng quan trọng hơn, kỷ nguyên tương lai ấy cần được định hướng bởi một hệ tư duy mới - dựa trên các giá trị dân tộc và dân chủ”.

Toàn bộ nội dung “văn kiện 50” của Việt Tân là sai lệch và nguy hiểm, là sự so sánh phiến diện giữa Việt Nam với các nước phát triển hàng đầu thế giới mà không tính đến điều kiện lịch sử, xuất phát điểm, chiến tranh, bao vây cấm vận, là cách nhìn thiếu công bằng. Đồng thời, luận điệu này phủ nhận hoàn toàn lịch sử và thành tựu cách mạng Việt Nam, phủ nhận những hy sinh to lớn của các thế hệ cha ông trong chiến tranh bảo vệ độc lập, cũng như nỗ lực của toàn dân trong công cuộc đổi mới. Tính nguy hiểm còn thể hiện ở chỗ, kẻ xấu lợi dụng luận điệu này để gieo rắc tâm lý chán nản, mất niềm tin vào chế độ, cổ xúy cho những “lối thoát” theo mô hình phương Tây, phản dân tộc; tác động đến tâm tư một bộ phận người dân và cả kiều bào ở nước ngoài, nhất là những người thiếu thông tin, có tư tưởng bất mãn, dẫn đến chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là giữa Đảng với nhân dân, hạ uy tín của Việt Nam.

2.2. Những minh chứng thực tiễn “Việt Nam không tụt hậu”

Có một sự thật mà những người cố chấp, với luận điệu “Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu” không bao giờ muốn nhắc đến, đó là Việt Nam, bằng chính nội lực và khát vọng của mình, đã đi những bước dài chưa từng có trong lịch sử hiện đại. Việt Nam không “tụt hậu” - Việt Nam đang tiến lên, điều đó được chứng minh bằng dữ liệu thực tế và những minh chứng sống động.

Thứ nhất, sự phát triển vượt bậc về kinh tế - xã hội của Việt Nam. Từ một nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, với nền kinh tế gần như kiệt quệ, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank), Việt Nam đã liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao, bình quân từ 6 - 7% trong nhiều năm liên tiếp. Năm 2024, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, những thiệt hại do thiên tai, trong đó có siêu bão Yagi (bão số 3) và mưa lũ, kinh tế - xã hội Việt Nam vẫn có bước phát triển tích cực, hoàn thành toàn bộ 15/15 chỉ tiêu đề ra, tăng trưởng GDP đạt 7,09%. Trong đó, kim ngạch xuất, nhập khẩu tiến tới mốc lịch sử khoảng 800 tỷ USD; cán cân xuất siêu năm thứ 9 liên tục với mức thặng dư gần 25 tỷ USD; công nghiệp phục hồi mạnh mẽ, tăng trưởng 8,4%... (2)

Nhìn lại lịch sử, năm 1975 quy mô nền kinh tế của cả miền Bắc và miền Nam cộng lại chưa đầy 22 tỷ USD. Đến năm 2024, GDP của Việt Nam đạt mức 476,3 tỷ USD (gấp gần 129 lần so với năm 1975), đứng thứ 24 trên thế giới tính theo sức mua tương đương (PPP). Năm 2024, GDP bình quân đầu người đạt 4.700 USD (tương đương 114 triệu đồng), gấp 58,75 lần so với năm 1975. GDP quý I-2025 tăng 6,93% so với cùng kỳ năm 2024, đạt mức tăng cao nhất so với quý I các năm trong giai đoạn 2020 - 2025(3). Bên cạnh đó, Việt Nam đang nổi lên như một điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư công nghệ cao, ngành công nghiệp bán dẫn. Theo báo cáo của Brand Finance năm 2024, giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp hạng 32/193 quốc gia.

Thứ hai, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao. Năm 1970, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam hơn 70%, thì hiện nay, theo chuẩn nghèo đa chiều của quốc tế, tỷ lệ này đã giảm xuống dưới 3%. Thành tựu này được Ngân hàng Thế giới đánh giá là “Một trong những thành tựu xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững nhất trong lịch sử hiện đại”, hay “Việt Nam đã đạt được sự tăng trưởng ấn tượng và xóa đói giảm nghèo ở quy mô hiếm có trên thế giới”. Không những vậy, người dân Việt Nam ngày nay không chỉ có cuộc sống đầy đủ hơn về vật chất mà còn được tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa với chất lượng ngày càng cao, tuổi thọ trung bình tăng từ 66,5 tuổi năm 1990 lên hơn 75 tuổi; học sinh Việt Nam xếp hạng top 10 thế giới trong các kỳ kiểm tra PISA (OECD), vượt qua cả Anh, Mỹ, Pháp. Đặc biệt, 72% học sinh Việt Nam đạt trình độ tối thiểu (Level 2) trong môn toán, cao hơn mức trung bình của OECD là 69%, tỷ lệ nhập học tiểu học gần 100%, và tỷ lệ biết chữ cao nhất khu vực (4). Bên cạnh đó, từ một nền y tế từng phải nhận viện trợ từng viên thuốc, Việt Nam đã tự chủ trong nhiều kỹ thuật ghép tạng, điều trị ung thư, phòng chống dịch, thành công trong cuộc chiến chống Covid-19…, là minh chứng rõ ràng cho năng lực quản trị và y tế cộng đồng.

Thứ ba, vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Việt Nam hiện là thành viên tích cực của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, CPTPP... Với những đóng góp của mình, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào nhiều vị trí, cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc và để lại nhiều dấu ấn nổi bật, như: Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2020 - 2021); Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77 (nhiệm kỳ 2022 - 2023); Ủy ban Luật pháp quốc tế (nhiệm kỳ 2023 - 2027; Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2023 - 2025); Ủy ban Pháp lý và kỹ thuật của Cơ quan quyền lực đáy đại dương (nhiệm kỳ 2023 - 2027)(5)… cùng với đó, Việt Nam đăng cai và tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn như Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều (năm 2019), các kỳ APEC, ASEAN... Những đóng góp tích cực, chủ động và trách nhiệm của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Rõ ràng, một quốc gia “tụt hậu” không thể có uy tín quốc tế lớn như vậy.

Mối quan hệ ngoại giao của Việt Nam cũng đạt được nhiều thành tựu nổi bật, mà không một quốc gia “tụt hậu” nào có thể làm được. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194/200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó, Việt Nam thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 13 quốc gia, bao gồm 4/5 Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là Mỹ, Nga, Trung Quốc và Pháp. Việt Nam luôn thể hiện trách nhiệm, chia sẻ khó khăn với các nước, như: cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ Quân đội và Công an tham gia các phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở châu Phi, tham gia cứu hộ, cứu trợ nạn nhân động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ, Myanma… Những hành động của Việt Nam thể hiện tinh thần nhân nghĩa, sẵn sàng chung tay giải quyết các thách thức chung mà nhân loại đang phải đối mặt.

Thứ tư, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam là thực chất, vì con người, không chạy theo hình thức. Trong luận điệu “Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu” các thế lực thù địch cho rằng Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền”“tụt hậu so với thế giới văn minh”. Tuy nhiên, nếu đánh giá bằng các tiêu chí toàn diện, thực chất và phù hợp với bối cảnh phát triển, thì Việt Nam mới là nước đang từng bước xây dựng một nền dân chủ vì nhân dân, bảo đảm quyền con người bằng hành động cụ thể, không phải những khẩu hiệu trống rỗng. Việt Nam thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, với quan điểm xuyên suốt: “dân là gốc”, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Dân chủ không chỉ thể hiện ở lá phiếu định kỳ, mà còn ở việc người dân được tham gia vào quá trình xây dựng, thực hiện và giám sát chính sách.

Bên cạnh đó, nhân quyền ở Việt Nam được bảo đảm bằng chính sách, luật pháp và thực tiễn. Không giống một số quốc gia đề cao “quyền tự do ngôn luận” một cách đơn lẻ, Việt Nam xây dựng hệ thống bảo vệ quyền con người theo hướng toàn diện, bao gồm: quyền được sống, được học hành, được chăm sóc y tế, được làm việc và được phát triển; quyền bình đẳng giới, quyền của người khuyết tật, quyền của trẻ em và quyền tiếp cận thông tin…

Thứ năm, Việt Nam trong mắt cộng đồng quốc tế là một “câu chuyện” thành công, kỳ tích. Sự đánh giá khách quan từ các tổ chức uy tín quốc tế cho thấy Việt Nam không “tụt hậu” như những luận điệu xuyên tạc. Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2023 nhận định: Việt Nam là một trong những quốc gia thành công nhất về phát triển trong vòng 25 năm qua”; Liên hợp quốc cho rằng: “Việt Nam là hình mẫu về thành công trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) và đang tiến nhanh tới Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs)”; Tạp chí Foreign Affairs (Hoa Kỳ) nhận định: “Việt Nam là một hình mẫu lý tưởng cho các quốc gia đang phát triển - một đất nước có thể tăng trưởng nhanh nhưng vẫn giữ được độc lập chính trị và ổn định xã hội”; Trong báo cáo “The Reshaping of Global Supply Chains” của McKinsey (2023), Việt Nam được xếp vào nhóm “4 con rồng mới châu Á”. Nhiều tờ báo lớn như Nikkei Asia, CNBC, Financial Times cũng ca ngợi Việt Nam là “ngôi sao đang lên của kinh tế số Đông Nam Á”.

Nếu bỏ qua định kiến, nhìn thẳng vào sự thật và so sánh công bằng thì Việt Nam hoàn toàn đi đúng quy luật phát triển. Những ai cho rằng “Việt Nam tụt hậu” là đang cố tình bỏ qua quy luật khách quan, bởi vì không một quốc gia nào có thể đi từ chiến tranh đổ nát tới thịnh vượng chỉ sau vài thập kỷ. Hàn Quốc cũng mất hơn 30 năm sau chiến tranh để đạt bước nhảy vọt kinh tế. Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai, mất gần 20 năm tái thiết mới vươn lên. Trung Quốc phải trải qua cải cách 1978 mới tăng trưởng mạnh mẽ. Thành tựu của Việt Nam không phải ngẫu nhiên có được, mà là kết quả của ý chí độc lập dân tộc, tinh thần đổi mới, và sự nỗ lực kiên cường của hơn 100 triệu con người. Việt Nam không tụt hậu, mà đang vươn lên mạnh mẽ, hội nhập sâu rộng, khẳng định vai trò ngày càng lớn trên bản đồ kinh tế, chính trị toàn cầu. Những luận điệu cho rằng Việt Nam đang “tụt hậu”, đang “mắc kẹt” trong một mô hình lỗi thời, đã bị phản bác bằng sự thật, bằng thành quả phát triển, bằng tiến bộ xã hội; bằng chính đời sống của người dân; bằng sự đánh giá khách quan của cộng đồng quốc tế.

2.3. Định hướng phát triển của Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Trong “văn kiện 50”, không chỉ xuyên tạc thực trạng tại Việt Nam, mà còn “hiến kế” cho Việt Nam “tìm ra lối thoát”. Tuy nhiên, chính Việt Tân và những người cổ xúy “lối thoát cho tương lai” cho Việt Nam đang cố tình áp đặt những khuôn mẫu lỗi thời, họ tô vẽ Việt Nam đang bế tắc, và cần một “lối thoát” từ bên ngoài. Thực tế đã chứng minh điều ngược lại, Việt Nam không chờ ai trao cho mình một “mô hình mẫu”, không đi tìm lối thoát như một quốc gia mất phương hướng. Việt Nam đang kiên định, bền bỉ đi trên con đường phát triển riêng, được kiến tạo bởi chính bàn tay, trí óc, bản lĩnh và khát vọng của hàng triệu người dân Việt Nam yêu nước, không phụ thuộc vào bất kỳ thế lực nào bên ngoài.

Việt Nam không cần phải “thay đổi chế độ” như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, mà phải phát triển từ đổi mới tư duy và ý chí tự cường dân tộc. Thực tế đã chứng minh, chính mô hình, thể chế hiện tại đã đưa Việt Nam ra khỏi khủng hoảng, thoát khỏi đói nghèo và vươn lên vị thế mới. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo, tổ chức, dẫn dắt công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập của đất nước. Thể chế chính trị ổn định là điều kiện tiên quyết giúp Việt Nam thu hút đầu tư, kiểm soát khủng hoảng và hoạch định chính sách lâu dài.

Việt Nam kiên định độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, chủ động hội nhập toàn cầu. Điểm khác biệt của Việt Nam là khả năng giữ vững mục tiêu chiến lược trong khi liên tục cập nhật phương pháp, chính sách để thích ứng với thời đại. Việt Nam kiên định con đường độc lập dân tộc gắn với CNXH, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế và chính sự kết hợp đó tạo nên kỳ tích. CNXH không phải giáo điều, mà là nền tảng để Việt Nam xây dựng Nhà nước vì dân, đặt con người là trung tâm phát triển, không để ai bị bỏ lại phía sau. Độc lập dân tộc không phải khép mình, mà là nguyên tắc để Việt Nam giữ thế tự chủ trước mọi sức ép bên ngoài. Hội nhập toàn cầu không đồng nghĩa hòa tan, mà là cách để Việt Nam tận dụng cơ hội, tham gia vào dòng chảy đổi mới với bản sắc riêng. Việt Nam không chọn “bên” trong cuộc cạnh tranh phe phái toàn cầu. Việt Nam dựa vào chính mình và đó là lý do Việt Nam không cần một “lối thoát” từ bên ngoài, mà đang đi vững trên con đường do chính mình mở lối.

Việt Nam hướng đến phát triển bền vững: Công nghệ số, kinh tế xanh, đổi mới sáng tạo, giáo dục chất lượng cao. Việt Nam đang chứng minh bằng hành động thông qua xác lập các định hướng chiến lược để bước vào kỷ nguyên mới với tầm nhìn và bản lĩnh riêng. Trong đó, ba đột phá chiến lược là hạ tầng, thể chế, nguồn nhân lực đang được triển khai mạnh mẽ, gắn với các xu thế toàn cầu. Chuyển đổi số đang trở thành trụ cột phát triển, Việt Nam đặt mục tiêu năm 2025, kinh tế số chiếm 20% GDP; mọi người dân có danh tính số và có thể tiếp cận dịch vụ công một cách nhanh chóng, minh bạch. Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, với cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam là một trong những quốc gia đang phát triển đầu tiên tham gia sâu vào chuyển đổi năng lượng công bằng và phát triển bền vững. Việt Nam đang hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… Số lượng startup công nghệ tăng mạnh, trong đó có nhiều kỳ lân công nghệ tiềm năng. Hệ thống đại học kết nối sâu với quốc tế, đào tạo nhân lực trình độ cao cho tương lai. Với những định hướng như vậy, Việt Nam xác lập chiến lược riêng, dựa trên nền tảng thực tiễn, con người, và khát vọng quốc gia.

Con đường Việt Nam đang đi là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn và khát vọng dân tộc. Việt Nam không đi theo “lối thoát” của người khác, mà đang đi con đường do chính mình lựa chọn, một con đường bắt nguồn từ lịch sử đấu tranh giành độc lập, hun đúc qua đổi mới, và đang tỏa sáng trong công cuộc hội nhập. Đó là đặt con người làm trung tâm, lấy phát triển bền vững làm định hướng, bản sắc và tự chủ làm nền tảng. Tính đúng đắn, phù hợp thực tiễn đã được chứng minh bằng những thành quả cụ thể, tăng trưởng ổn định, vị thế quốc tế gia tăng, đời sống người dân cải thiện rõ rệt, lòng tin xã hội ngày càng được củng cố vững chắc. Tất nhiên, con đường đó còn không ít thách thức nhưng cách Việt Nam nhận diện, đối mặt và xử lý đã thể hiện sự trưởng thành về quản trị và bản lĩnh tự cường dân tộc. Con đường Việt Nam đang đi có sự chọn lọc, sáng tạo và điều chỉnh linh hoạt, không ngừng đổi mới, nhưng không bao giờ từ bỏ mục tiêu của mình.

Với tinh thần tự hào, tự cường, Việt Nam không cho phép bất cứ thế lực nào xuyên tạc con đường mình đã chọn. Việt Nam đã trải qua chiến tranh, cấm vận, thiên tai, khủng hoảng nhưng không khuất phục, Việt Nam đã vươn lên bằng trí tuệ, bằng lòng dân, bằng niềm tin vào con đường độc lập, tự chủ và phát triển bền vững. Nhân dân Việt Nam có quyền tự hào về những thành quả hôm nay, không phải để ngủ quên, mà để tiếp tục tự cường, chúng ta không né tránh những bất cập, càng không chấp nhận những xuyên tạc, áp đặt và can thiệp núp bóng “tự do”, “dân chủ”. Mỗi người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước là một mảnh ghép tạo nên sức mạnh dân tộc và mỗi người cần cùng nhau bảo vệ sự thật, bảo vệ thành quả phát triển, bảo vệ con đường đất nước đang đi.

3. Kết luận

Nửa thế kỷ sau thống nhất, Việt Nam từng bước vươn lên từ một quốc gia bị chiến tranh tàn phá, điểm xuất phát thấp, đến một đất nước năng động, có vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, giữ vững ổn định chính trị, xã hội và lòng dân. Những thành tựu đó không đến từ may mắn, cũng không nhờ vào một “mô hình nhập khẩu” nào, mà đến từ sự kiên định con đường: Độc lập dân tộc gắn với CNXH, cải cách có kiểm soát, hội nhập có nguyên tắc. Việt Nam đã trả lời bằng sự thật là kết quả thực tế, có thể đo đếm được và trả lời bằng kỳ tích là những điều tưởng chừng không thể, nhưng đã trở thành hiện thực nhờ bản lĩnh và khát vọng dân tộc. Đấu tranh phản bác luận điệu “Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu và lối thoát cho tương lai” là trách nhiệm của mọi công dân, là cách để bảo vệ những hy sinh, mất mát của thế hệ cha ông, đồng thời củng cố niềm tin vào hiện tại và vững bước hướng tới kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.

_________________

Ngày nhận: 5-5-2025; Ngày bình duyệt: 16-8-2025; Ngày duyệt đăng: 28-9-2025.

Email: aduyano@gmail.com

(1) Tô Lâm: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, https://tapchicongsan.org.vn, ngày đăng 27-4-2025.

(2) Thu Thủy: Kiến tạo nền kinh tế hướng tới mục tiêu tăng trưởng GDP “hai con số”, https://nhandan.vn, ngày đăng 23-01-2025.

(3) Phạm Đông: Bước chuyển mình mạnh mẽ sau 50 năm thống nhất đất nước, https://laodong.vn, ngày đăng 30-4-2025.

(4) Thanh Xuân: Học sinh Việt Nam có điểm Toán cao theo khảo sát PISA, https://nhandan.vn, ngày đăng 28-2-2024.

(5) Ngọc Anh: Việt Nam là thành viên trách nhiệm của Liên hiệp quốc, https://xaydungdang.org.vn, 2023.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Phản bác luận điệu xuyên tạc “Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu và lối thoát cho tương lai”
    POWERED BY