(LLCT) - Chuyển đổi số là xu thế tất yếu và đòi hỏi khách quan của sự phát triển hiện nay. Tại Việt Nam, để đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên số, chuyển đổi số thành công, việc ứng dụng công nghệ số và dữ liệu phải tập trung vào yếu tố con người. Bài viết góp phần làm rõ lý luận về nhân lực số, thực trạng nguồn nhân lực số tại các cơ quan nhà nước ở Việt Nam, từ đó đề xuất kiến nghị nhằm phát triển nguồn nhân lực số đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số quốc gia ở Việt Nam hiện nay.
PHAN HOÀNG NGỌC ANH
Học viện Chính trị khu vực II
1. Mở đầu
Chuyển đổi số là động lực phát triển trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Việt Nam muốn hùng cường, thịnh vượng và trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 thì phải thực hiện chuyển đổi số. Trong đó, nguồn nhân lực số là một yếu tố nội sinh cốt lõi, quyết định sự thành công của quá trình chuyển đổi số.
Thời gian qua, công tác thu hút, phát triển nguồn nhân lực số đã đạt được những kết quả nhất định. Nguồn lao động có trình độ cao chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong cơ cấu lao động nghề nghiệp. Tuy nhiên, nguồn nhân lực số của Việt Nam vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
2. Một số vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân lực số
“Nhân lực số là lực lượng lao động kỹ thuật chuyên nghiệp, trực tiếp thực hiện các sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin (CNTT), điện tử viễn thông, an toàn thông tin (ATTT) mạng để phục vụ hoạt động công nghệ số”(1). Các đặc trưng của nguồn nhân lực số là: i) Có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số trong quá trình tương tác của các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội; ii) Có khả năng sẵn sàng với môi trường lao động và tiến bộ khoa học công nghệ trong thời gian nhanh nhất; iii) Có tính sáng tạo cao trong công việc.
Phát triển nguồn nhân lực số được hiểu là quá trình tăng lên về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực số để đáp ứng các yêu cầu do chuyển đổi số đặt ra. Trong đó, phát triển về số lượng nhằm tạo ra nhân lực số dồi dào, đặc biệt là lực lượng chuyên trách về chuyển đổi số (phụ trách công nghệ thông tin và an toàn thông tin); phát triển về chất lượng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức, thái độ và kỹ năng hoạt động nghề nghiệp của nguồn nhân lực số.
Các nội dung phát triển nguồn nhân lực số bao gồm:
Một là, phát triển về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực số. Đây là bước quan trọng trong quá trình phát triển nguồn nhân lực số, bao gồm các cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao có năng lực, trình độ cao và phẩm chất tốt đáp ứng tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Hai là, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực số. Đối với khu vực nhà nước, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức sẽ bảo đảm nguồn nhân lực của đơn vị có thể thích ứng và theo sát sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ba là, phát triển đội ngũ chuyên trách về chuyển đổi số bao gồm lực lượng phụ trách công nghệ thông tin và an toàn thông tin.
3. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực số hiện nay
Phát triển và phát huy vai trò nguồn nhân lực số là một trong những nhiệm vụ, mục tiêu, động lực của chuyển đổi số. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03-6-2020 phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Trong đó, nhấn mạnh vai trò của nguồn nhân lực số và đặt ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể trong phát triển nguồn nhân lực số: “Xây dựng chương trình, nâng cao nhận thức, đào tạo kỹ năng về chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước” và “Lựa chọn, đào tạo, tập huấn đội ngũ tối thiểu 1.000 chuyên gia về chuyển đổi số cho ngành, lĩnh vực, địa phương. Các chuyên gia này tiếp tục đào tạo lại cho cán bộ liên quan ở cơ quan, tổ chức mình và trở thành lực lượng nòng cốt để dẫn dắt, tổ chức và lan tỏa tiến trình chuyển đổi số quốc gia”(2). Tất cả các bộ, ngành trung ương và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã cụ thể hóa Quyết định số 749/QĐ-TTg bằng các chương trình, kế hoạch, đề án riêng về chuyển đổi số trong giai đoạn 2021-2025.
Công tác phát triển nguồn nhân lực số đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận là:
Một là, về số lượng nguồn nhân lực số
Tỷ lệ lao động có chuyên môn, kỹ thuật, được đào tạo bài bản ngày càng tăng. Đây là một cơ sở quan trọng để phát triển nguồn nhân lực số. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý IV năm 2023 là 27,6%, tăng 0,3 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Năm 2023, lực lượng lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 14,1 triệu người, chiếm 27,0%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm 2022(3).
Hình 1: Tỷ lệ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin, an toàn thông tin trong các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
Tỷ lệ cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin và an toàn thông tin ngày càng được bổ sung, phát triển. Giai đoạn 2017-2022, tỷ lệ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin trong các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chiếm gần 2%; tỷ lệ cán bộ chuyên trách an ninh thông tin tăng 0,4% (hình 1). Đối với cơ quan nhà nước các tỉnh/thành phố, tỷ lệ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin tăng 0,3% giai đoạn 2017-2022 (hình 2).
Hình 2: Tỷ lệ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin, an toàn thông tin trong các cơ quan nhà nước của tỉnh, thành phố
Tuy nhiên, Hình 1 và Hình 2 cho thấy tỷ lệ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin và an toàn thông tin ở các bộ, cơ quan thuộc bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ cao hơn và tăng nhanh hơn ở các cơ quan nhà nước của tỉnh, thành phố.
Hai là, về chất lượng
“Tính chung năm 2023, lực lượng lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ ước tính là 14,1 triệu người, chiếm 27,0%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm 2022”(4). Công tác đào tạo nguồn nhân lực số đã có bước chuyển biến và đạt được kết quả đáng ghi nhận. Theo Tổng Cục Thống kê, Việt Nam hiện nay có 168 trường đại học và 520 trường nghề có đào tạo về chuyên ngành truyền thông (ICT) và công nghệ thông tin với tổng số chỉ tiêu tuyển sinh đầu vào khoảng 100 nghìn sinh viên. Tổng số sinh viên tốt nghiệp hằng năm đạt trên 84 nghìn. Trong chương trình đào tạo đại học, sau đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bổ sung 5 mã ngành liên quan đến công nghệ thông tin và máy tính. Chuyên ngành đào tạo công nghệ thông tin và máy tính là những ngành có tỷ lệ hồ sơ đầu vào cao (năm 2022 đạt 70.000 hồ sơ, tăng 16% so với năm 2021). Hằng năm, số lượng sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành này là hơn 65.000 (tính cả cao đẳng, trung cấp). Trong cơ cấu lao động nghề nghiệp hiện nay, lao động làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ số đạt khoảng 1,5 triệu người(5).
Một số trường đại học đã ứng dụng các nền tảng số hiện đại vào đào tạo nhân lực trình độ cao như Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông với mô hình đại học số trên nền tảng công nghệ PTIT-Slink. Đặc biệt, mô hình “Giáo dục đại học số” dưới sự chủ trì Bộ Giáo dục và Đào tạo kết hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông đã được triển khai thí điểm ở 5 trường đại học kèm theo Bộ tiêu chí và chỉ số đánh giá chuyển đổi số cơ sở giáo dục đại học.
Công tác tập huấn nguồn nhân lực số được chú trọng và thực hiện tương đối hệ thống, toàn diện với các hình thức đào tạo đa dạng, phù hợp với từng đối tượng. Năm 2023, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức 60 khóa học về chuyển đổi số trên nền tảng MOOCS cho 305 nghìn lượt người là cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các cơ quan nhà nước; tổ chức 20 khóa phổ cập kỹ năng số với 23 triệu lượt người truy cập học; 02 khóa tập huấn cho các thành viên tổ công nghệ số cộng đồng. Công tác tập huấn ở các bộ, ngành, địa phương diễn ra rất tích cực với sự hỗ trợ của Bộ Thông tin và Truyền thông, có 140 nghìn cán bộ, công chức, viên chức và người lao động đã tập huấn về công tác chuyển đổi số(6).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn một số hạn chế về nguồn nhân lực số là:
Thứ nhất, nguồn nhân lực số còn thiếu, chưa đáp ứng về mặt số lượng so với yêu cầu chuyển đổi số quốc gia
Năm 2023, cả nước vẫn còn 38 triệu lao động chưa qua đào tạo(7). Con số này cho thấy thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động.
Tỷ lệ cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin mặc dù có tăng qua các năm nhưng chiếm tỷ lệ quá thấp so với cơ cấu vị trí việc làm của các nhóm nghề nghiệp khác. Năm 2022, ở các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ, tỷ lệ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin chỉ chiếm 6,1%. Đối với tỉnh, thành phố thì tỷ lệ này lại thấp hơn rất nhiều, chỉ chiếm 1,4%. Hiện nay, một số quận, huyện, sở, ngành chỉ có 1-3 nhân lực phụ trách chuyển đổi số, công nghệ thông tin và trong đó có một vị trí kiêm nhiệm do phó chánh văn phòng cấp sở hoặc UBND quận, huyện phụ trách.
Một trong những nguyên nhân là hiện nay chưa có cơ chế riêng trong tuyển dụng nhân lực số, đặc biệt với vị trí việc làm “phụ trách về chuyển đổi số”. Với vai trò phụ trách công nghệ thông tin, chuyển đổi số nhưng chưa có chức danh nên nhân lực này thường được ghép vào bộ phận văn phòng hay quản trị với mức thu nhập thấp nhưng yêu cầu lại là nhân lực chất lượng cao, do đó rất khó thu hút người có trình độ chuyên môn phù hợp ứng tuyển vào vị trí này.
Hình 3: Tỷ lệ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin
Nguồn lực cán bộ phụ trách an toàn thông tin cũng thiếu nhiều. Đây là lực lượng đòi hỏi cao về mặt kỹ năng, trình độ. Tỷ lệ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực an toàn thông tin còn giảm đáng kể trong giai đoạn 2020-2022 đối với các cơ quan nhà nước ở tỉnh, thành phố. Năm 2017, có 0,8% cán bộ chuyên trách an toàn thông tin, nhưng đến năm 2022, giảm chỉ còn 0,7% (Hình 4). Đối với các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ, tỷ lệ cán bộ chuyên trách an toàn thông tin tăng rất chậm từ năm 2017 đến 2019; từ năm 2019 đến năm 2022, giữ nguyên ở mức 1,8%. Điều đó cho thấy sự thiếu hụt trầm trọng của nguồn nhân lực này, trong khi an toàn, an ninh thông tin là yếu tố then chốt trong chuyển đổi số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Hình 4: Tỷ lệ cán bộ chuyên trách an toàn thông tin
Thực tiễn cho thấy, nhân lực công nghệ thông tin đang trong tình trạng thiếu hụt lớn, báo cáo của TopDev chỉ ra rằng: “Nếu năm 2021, các doanh nghiệp cần 450.000 nhân sự, thì nguồn nhân lực chỉ đáp ứng được 430.000 người. Năm 2022, con số thiếu hụt này lên tới 150.000 nhân sự khi nhu cầu tuyển dụng của thị trường lên đến 530.000 người. Năm 2023, toàn ngành sẽ thiếu hụt khoảng một triệu lao động. Trong đó, doanh nghiệp IT - Phần mềm thuộc nhóm có tỷ lệ thiếu nhiều nhất. Nhân sự công nghệ thông tin luôn nằm trong top ba vị trí được săn tìm trong thời gian gần đây”(8).
Thứ hai, kỹ năng của nguồn nhân lực số còn hạn chế, đặc biệt là các kỹ năng thích ứng và làm chủ các công nghệ đặc trưng của chuyển đổi số như: blockchain, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, khoa học dữ liệu. Đây chính là những rào cản trong quá trình làm chủ các chương trình chuyển đổi số
Một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng của nguồn nhân lực số chính là kỹ năng số. Kỹ năng số “là một loạt các khả năng sử dụng các thiết bị kỹ thuật số, các ứng dụng về truyền thông và mạng để truy cập và quản lý thông tin, cho phép mọi người tạo và chia sẻ nội dung kỹ thuật số, giao tiếp, cộng tác và giải quyết các vấn đề để tự hoàn thành một cách hiệu quả và sáng tạo trong cuộc sống, học tập, công việc và hoạt động xã hội nói chung”(9). Diễn đàn Kinh tế thế giới xem tiêu chí kỹ năng số là một trụ cột quan trọng trong đánh giá kỹ năng của người lao động. Kết quả Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu cho thấy, trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam là nước có điểm về kỹ năng số ở mức thấp, chỉ cao hơn Campuchia (hình 5)(10).
Hình 5: Điểm kỹ năng số của lực lượng lao động tại một số nước châu Á - Thái Bình Dương
Theo báo cáo của Cisco năm 2019 về mức độ sẵn sàng về kỹ năng số của các quốc gia trên thế giới, điểm số trung bình của Việt Nam là 12,06(11). Việt Nam nằm trong nhóm tăng tốc với ý nghĩa là lực lượng lao động có khả năng cải thiện mức độ sẵn sàng số và tạo ra công nghệ mới. Tuy nhiên, các chỉ số thành phần như chỉ số vốn con người (0,86), khả năng áp dụng công nghệ (0,98) cho thấy lực lượng lao động Việt Nam vẫn còn khoảng cách rất xa so với các quốc gia khác trong khu vực.
Thứ hạng về kỹ năng số của lao động Việt Nam cũng đang ở mức thấp, đứng thứ 97 trên thế giới, chỉ đứng trên Campuchia so với các quốc gia trong khu vực (Hình 6).
Hình 6: Thứ hạng về kỹ năng số của lực lượng lao động Việt Nam năm 2022
Như vậy, còn rất nhiều lao động hoạt động trong môi trường số thiếu các kỹ năng về công nghệ thông tin; trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của công việc; một số cơ quan phải đào tạo lại mới có thể sử dụng được nguồn nhân lực này.
Qua các phân tích trên cho thấy, nếu xu hướng chuyển đổi số là tất yếu thì việc phát triển về số lượng lẫn chất lượng và phát huy vai trò nguồn nhân lực số là cực kỳ quan trọng và cần thiết. Việc nâng cao kiến thức, kỹ năng số, bổ sung nguồn nhân lực số không chỉ giúp làm chủ được quá trình chuyển đổi số, khẳng định vai trò, vị thế mà còn góp phần nâng cao hiệu quả, thành công của tiến trình chuyển đổi số. Để phát huy hơn nữa vai trò của nguồn nhân lực số và khắc phục những hạn chế, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan quản lý, người lao động và người sử dụng lao động.
4. Một số khuyến nghị
Một là, phát huy vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng hành lang pháp lý cũng như thiết lập hạ tầng kỹ thuật số phục vụ quá trình chuyển đổi số và phát triển kỹ năng số cho lực lượng lao động. Chính phủ cần hoạch định chính sách, ngân sách hỗ trợ cho các cơ quan nhà nước trong quá trình chuyển đổi số cũng như đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng số, năng lực số cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Đồng thời, Chính phủ và Bộ Nội vụ cần nhanh chóng hoàn thành đề án vị trí việc làm và bổ sung chức danh phụ trách chuyển đổi số ở cơ quan, đơn vị kèm theo các tiêu chí, điều kiện và quy định về chức năng, nhiệm vụ cụ thể.
Hai là, đẩy mạnh việc đào tạo, tập huấn nguồn nhân lực tại chỗ ở cơ quan, đơn vị thông qua các chương trình đào tạo trực tuyến. Thường xuyên chia sẻ dữ liệu, tài nguyên số trong quá trình đào tạo và tập huấn. Các nhà cung cấp dịch vụ đào tạo cần xây dựng và thu hút nguồn nhân lực cao để giảng dạy kỹ năng số, năng lực số. Khuyến khích người lao động, cán bộ, công chức, viên chức, người dân tham gia học tập, bồi dưỡng, các khóa tập huấn về chuyển đổi số, kỹ năng số nhằm nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu của công việc.
Ba là, đối với người lao động phụ trách chuyển đổi số ở cơ quan, đơn vị cần có chế độ đãi ngộ phù hợp, chế độ khuyến khích vật chất, tinh thần, tạo môi trường, động lực làm việc và tăng sự gắn kết, gắn bó lâu dài. Đồng thời, tạo điều kiện tham gia các khóa bồi dưỡng trong nước, nước ngoài, có cơ hội mở mang kiến thức, trau dồi kỹ năng số.
Bốn là, đối với bản thân cán bộ, công chức, viên chức và người lao động cần tăng cường tính chủ động và khả năng thích ứng. Cần xác định các thiếu hụt về năng lực, kỹ năng số; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, đáp ứng các yêu cầu của chuyển đổi số. Từng cá nhân cần có nhận thức rõ hơn về tương lai, xác định và thực hiện đúng vai trò của mình trong chuyển đổi số.
5. Kết luận
Phát triển, phát huy vai trò nguồn nhân lực số là chìa khóa trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Để phát triển nhân lực số, cần sự chung tay của cả hệ thống chính trị, từ Trung ương đến địa phương. Trong đó, sự dẫn dắt của Chính phủ về cơ chế, chính sách giữ vai trò then chốt; giáo dục - đào tạo là trung tâm mang tính chiến lược nhằm tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực số lớn về số lượng, mạnh về chất lượng, bảo đảm yêu cầu của quá trình chuyển đổi số quốc gia.
_________________
Ngày nhận: 4-11-2024; ngày bình duyệt: 8-11-2024 ; ngày duyệt đăng 30-11-2024.
(1) Nguyễn Thành Chung: “Vai trò của nguồn nhân lực số trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Thông tin và Truyền thông, số 7 (tháng 7-2023).
(2) Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03-6-2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, tr.8-9,12-13.
(3), (4), (5), (7) Tổng cục Thống kê: Tình hình thị trường lao động và việc làm Việt Nam năm 2023, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/tinh-hinh-thi-truong-lao-dong-viet-nam-nam-2023/, ngày 02-01-2024
(6) Kết quả Chuyển đổi số quốc gia năm 2023, http://caicachhanhchinh.gov.vn/tin-tuc/ket-qua-chuyen-doi-so-quoc-gia-nam-2023, ngày 30-12-2023
(8) Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình chuyển đổi số, https://tapchitaichinh.vn/phat-trien-nguon-nhan-luc-trong-qua-trinh-chuyen-doi-so.html, ngày 12-01-2024
(9)UNESCO: Digital skills critical for jobs and social inclusion, https://en.unesco.org/news/digital-skills-critical-jobs-and-social-inclusion, 2018.
(10) World Economic Forum: The Global Competitiveness Report, 2019.
(11) Bùi Thị Hồng Hà: “Kỹ năng số của lực lượng lao động: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(191)-2023.