Nghiên cứu lý luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển khoa học, kỹ thuật và sự vận dụng trong thời kỳ đổi mới

30/09/2025 19:36

(LLCT) - Bài viết khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về khoa học, công nghệ, phát huy sáng kiến và sự vận dụng trong thời kỳ đổi mới, nêu thực trạng và những vấn đề đặt ra, từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

TS NGÔ THỊ TÂN HƯƠNG
TS DƯƠNG THỊ HƯƠNG

Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh,
Đại học Thái Nguyên

Các sản phẩm công nghệ được trưng bày tại Triển lãm Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam - Nhật Bản và Triển lãm quốc tế Công nghệ chế tạo phụ tùng công nghiệp tại Việt Nam_Ảnh: TTXVN

1. Mở đầu

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, khoa học, công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST) là nguồn lực quan trọng quyết định năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế bền vững của các quốc gia. Việc đầu tư vào KHCN và ĐMST trở thành yêu cầu cấp thiết để nâng cao năng suất lao động, cải thiện chất lượng sản phẩm, dịch vụ và gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia. Tư tưởng Hồ Chí Minh về khoa học, kỹ thuật (KHKT), phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật là kim chỉ nam định hướng chủ trương, chiến lược phát triển KHCN và ĐMST trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, đưa Việt Nam nâng tầm vị thế và uy tín trong khu vực và thế giới. Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được coi là chìa khóa quan trọng đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và sự phát triển kinh tế - xã hội để nâng tầm vị thế của các quốc gia trên trường quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế và tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay.

2. Nội dung

2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về khoa học, kỹ thuật và đổi mới sáng tạo

Tư tưởng Hồ Chí Minh về khoa học, kỹ thuật và giải pháp phát triển khoa học, công nghệ

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò của KHKT, là động lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước theo định hướng XHCN, giúp nước ta phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa và nông nghiệp tiên tiến, hiện đại, cải tiến lề lối, phương thức sản xuất, nhờ đó tăng năng suất lao động, phát triển kinh tế. Người khẳng định: “chúng ta chỉ có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên cơ sở một nền khoa học, công nghệ tiên tiến” và “tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học”(1).

Theo Hồ Chí Minh, để khoa học thực sự trở thành động lực then chốt phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện CNH đất nước, khoa học cần bắt rễ từ thực tiễn và phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng nhân dân cải tiến kỹ thuật sản xuất, nâng cao năng suất lao động và tạo ra nhiều của cải vật chất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của quần chúng nhân dân.

Để phát triển khoa học, kỹ thuật, theo Hồ Chí Minh, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, Hồ Chí Minh cho rằng, cần tăng cường vai trò, trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với việc hoạch định, xây dựng chiến lược, chính sách nhằm định hướng phát triển KHKT và ĐMST dựa trên điều kiện thực tiễn của đất nước, nhằm tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân. Kế hoạch phát triển KHKT cần gắn với thực tiễn, phù hợp với thực tiễn, không quên tiết kiệm. Phát triển KHKT gắn với sản xuất của nền kinh tế nông nghiệp, yêu cầu của nông dân và yêu cầu phát triển của đất nước, các nguồn lực và tiềm năng phát triển của đất nước.

Nhận thức được xu hướng phát triển mạnh mẽ của KHKT, Người chỉ ra rằng, cần có tư duy đổi mới, đấu tranh với bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, tư tưởng hẹp hòi, cá nhân, thiếu trọng thị, kìm hãm nhân tài… và khẳng định: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài”(2). Vì thế, Người chỉ ra rằng, để KHKT thực sự trở thành động lực cho sự phát triển của đất nước, cần tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài, có chính sách sử dụng, đãi ngộ, thu hút nhân tài hiến kế, hiến tài cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Người chỉ thị cho các địa phương trong cả nước “phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”(3).

Hai là, phát triển giáo dục, đào tạo; bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học. Theo Người, không phát triển giáo dục, không thể nắm bắt, theo kịp sự phát triển nhanh chóng của KHKT. Giáo dục là phương thức hiệu quả để tiếp cận KHKT, nhân lên sức mạnh của tri thức và KHKT trong sự nghiệp xây dựng, đổi mới và phát triển nước nhà. Vì thế, sinh thời Hồ Chí Minh coi trọng việc “Đào tạo trí thức mới. Cải tạo trí thức cũ. Công nông trí thức hóa. Trí thức công nông hóa”(4).

Ba là, Hồ Chí Minh cho rằng, cần thực hành dân chủ rộng rãi, nhằm tạo ra môi trường phát triển KHKT. Người chỉ ra: “Công tác cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật và cải tiến tổ chức như cái kiềng ba chân, nếu hai chân dài, một chân ngắn thì không thể nào đứng vững được. Muốn làm tốt các việc này phải thực hiện dân chủ”(5). Theo Người, dân chủ có ý nghĩa quan trọng, là động lực khơi dậy năng lực trí tuệ của đội ngũ trí thức, cán bộ KHKT, nhằm bảo đảm quyền lợi được tham gia các hoạt động KHKT, nghiên cứu, học tập, cải tiến kỹ thuật và phát huy sáng kiến trong nghiên cứu và ứng dụng tri thức khoa học, mô hình, sáng chế áp dụng mang lại hiệu quả trong phát triển kinh tế - xã hội. Thực hành dân chủ nhằm bảo đảm sự khách quan, công bằng, công khai, minh bạch trong sinh hoạt khoa học, kiểm tra, giám sát và đánh giá kết quả, chất lượng sản phẩm KHKT.

Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế để thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực nhằm phát triển kinh tế - chính trị - văn hóa, xã hội của đất nước, vì thế, để tạo động lực phát triển cho KHKT, Người cũng khẳng định, hợp tác quốc tế, mở cửa ngoại giao là chìa khóa quan trọng thúc đẩy phát triển KHKT, vừa là nhu cầu, vừa là điều kiện để tạo sức phát triển cho đất nước.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới

Thuật ngữ và tư tưởng “đổi mới” được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập từ sớm trong tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927); sau đó được Người nhắc lại, làm rõ thêm trong nhiều bài viết, bài nói, nổi bật là Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Đời sống mới (năm 1947), Dân vận (năm 1949), đặc biệt là trong bản Di chúc thiêng liêng. Trong quan điểm của Người, “đổi mới” là bản chất của cách mạng, phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt. Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, tư duy đổi mới có vai trò quan trọng nhằm chiến thắng những gì lỗi thời, lạc hậu, tạo động lực cho sức phát triển mới của đất nước: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”(6).

Triết lý, chân lý đổi mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vì lợi ích của nước nhà, vì lợi ích của nhân dân. Người luôn căn dặn: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý”(7); “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(8). Người cho rằng: Đổi mới phải xuất phát từ thực tiễn khách quan, giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Vì thế, đổi mới cần giải quyết những vấn đề của thực tiễn, gắn với thực tiễn và hiệu quả áp dụng trong thực tiễn được coi là thước đo để đánh giá sự đúng đắn của đổi mới. Người cũng xác định rõ, đổi mới không thể thành công trong ngày một, ngày hai mà là sự nghiệp lâu dài, gian khổ, phức tạp, vì thế, chúng ta cần sự kiên trì, kiên định và kiên quyết, đồng thời cũng cần lựa chọn bước đi thích hợp.

Theo Người, cái mới, cái sáng tạo phải phù hợp với quy luật khách quan, đồng thời phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội. Trong sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước, Người khẳng định, linh hồn của đổi mới là Đảng Cộng sản Việt Nam, mà mỗi cán bộ, đảng viên phải là những người tiên phong nhất trong sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước, và kim chỉ nam trong sự nghiệp đổi mới của đảng ta là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

2.2. Thực trạng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam

Nhận thức được tầm quan trọng của KHCN và ĐMST đối với phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển KHCN và ĐMST. Hệ thống văn bản pháp luật về KHCN và ĐMST hiện nay tương đối đầy đủ, đồng bộ, tạo khung pháp lý cần thiết cho việc triển khai hoạt động KHCN và ĐMST.

Về nguồn nhân lực KHCN và ĐMST, tính đến năm 2021, cả nước có 187.298 người tham gia hoạt động nghiên cứu và phát triển, tập trung nhiều ở các tổ chức giáo dục đại học, các tổ chức nghiên cứu và phát triển và nhân lực làm nghiên cứu và phát triển trong khu vực doanh nghiệp(9). Trong đó, tỷ lệ nguồn nhân lực KHCN và ĐMST của nước ta chủ yếu tập trung ở các cơ sở giáo dục đại học chiếm tới 51% (Hình 1).

Hình 1: Tỷ lệ nguồn nhân lực KHCN và ĐMST trong các tổ chức nghiên cứu và phát triển năm 2021

(Đơn vị tính: %)

Nguồn: (10)

Trong giai đoạn 2017-2021, số lượng và trình độ đội ngũ nghiên cứu có xu hướng tăng. Trong đó, số lượng nhà nghiên cứu có trình độ thạc sỹ tăng 14.606 người, tương đương 28,6%; số lượng nghiên cứu viên có trình độ tiến sỹ tăng 10.088 người, tương đương 70% (Hình 2).

Hình 2: Nguồn nhân lực KHCN và ĐMST phân theo trình độ năm 2021

(Đơn vị tính: Người)

Nguồn: (11)

Về số lượng và chất lượng các nhiệm vụ khoa học và công bố quốc tế

Theo cơ sở dữ liệu Scopus, tính đến ngày 6-3-2024, tổng số bài báo của Việt Nam công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế giai đoạn 2018-2023 là 96.211 bài(12).

Hình 3: Công bố quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2018-2023

Nguồn:(13)

Trong giai đoạn 2018-2023, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam có xu hướng tăng, tốc độ tăng công bố quốc tế mạnh nhất trong hai năm 2019 và 2020 đạt trên 40%; từ năm 2021, số lượng công trình khoa học công bố vẫn có xu hướng tăng, tuy nhiên mức độ tăng ít hơn so với giai đoạn trước; đến năm 2023, tốc độ tăng trưởng công bố quốc tế của nước ta bắt đầu phục hồi, tăng trở lại.

Về hoạt động của doanh nghiệp KHCN, tính đến hết năm 2022, cả nước đã cấp Giấy chứng nhận Doanh nghiệp khoa học và công nghệ cho 712 doanh nghiệp, tăng 76 doanh nghiệp so với năm 2021. Các doanh nghiệp KHCN được cấp giấy chứng nhận KHCN thuộc hầu hết các lĩnh vực công nghệ được khuyến khích phát triển, trong đó chủ yếu: công nghệ sinh học (39,9%), công nghệ tự động hóa (25,5%), công nghệ thông tin (17%), vật liệu mới (10%)(14).

Về hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST, tính đến hết năm 2023, toàn quốc có gần 4.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo(15). Chất lượng của các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo cũng ngày càng cao. Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam từng bước thu hút được sự quan tâm từ phía các nhà đầu tư, đặc biệt từ nguồn ngoài nước, Việt Nam hiện được đánh giá là quốc gia năng động thứ 3 Đông Nam Á về khởi nghiệp sáng tạo(15).

Sau gần 40 năm đổi mới, KHCN và ĐMST ở Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực với nhiều thành tựu trong nghiên cứu, gắn với sản xuất và đời sống, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của tất cả các ngành, các lĩnh vực. Chỉ số đổi mới sáng tạo (GII) của Việt Nam liên tục được cải thiện trong 13 năm qua, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra ĐMST. Năm 2024, Việt Nam xếp thứ 44, tăng 2 bậc so với năm 2023 (Hình 4), duy trì vị trí thứ 2 trong nhóm 36 nền kinh tế thu nhập trung bình thấp, là một trong 7 quốc gia thu nhập trung bình đạt được nhiều tiến bộ nhất về đổi mới sáng tạo trong thập kỷ qua.

Hình 4: Thứ hạng xếp hạng chỉ số GII của Việt Nam giai đoạn 2017- 2024

(Đơn vị tính: Thứ bậc)

Nguồn: (17)

Tuy nhiên, hiện nay KHCN và ĐMST chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước và đặt ra một số vấn đề:

Một là, các hoạt động KHCN và ĐMST chưa phát triển tương xứng với vị trí, vai trò. Hiệu quả trong phát triển KHCN và ĐMST còn chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát triển đất nước, nhiều địa phương chưa quan tâm đầu tư thoả đáng cho phát triển KHCN và ĐMST.

Hai là, cơ chế, chính sách và hành lang pháp lý còn thiếu sự đồng bộ, còn một số bất cập, vướng mắc trong thực tiễn như: Chính sách, quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ còn thiếu đồng bộ, khó thực thi; thiếu các chính sách ưu đãi trong đầu tư ứng dụng công nghệ mới, sản phẩm mới; một số cơ chế ưu đãi thuế cho đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ còn khó thực thi do các quy định pháp luật chưa đồng bộ,…

Ba là, mức độ đầu tư cho KHCN và ĐMST chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế; nguồn lực của Nhà nước bố trí cho phát triển KHCN và ĐMST còn thấp, phân bổ, sử dụng chưa hiệu quả; đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị KHCN còn nghèo nàn, lạc hậu. Ở một số địa phương, ngân sách đầu tư phát triển KHCN chưa được phân bổ và sử dụng đúng mục đích.

Bốn là, thiếu nguồn nhân lực KHCN và ĐMST chất lượng cao. Hiện nay, số lượng nhân lực nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam còn ít so với thế giới. Nguồn nhân lực KHCN tập trung vào viện nghiên cứu, trường đại học công lập, nhân lực nghiên cứu và phát triển trong doanh nghiệp còn mỏng. Các quy định về ưu đãi nhân lực KHCN chưa tạo được động lực khơi dậy tiềm năng sáng tạo của các nhà khoa học. Thiếu cơ chế, chính sách đột phá trong đầu tư, huy động nguồn lực, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng, tôn vinh trí thức, nhất là bộ phận trí thức tinh hoa, các nhà khoa học, nhà văn hóa lớn.

2.3. Một số giải pháp phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Thứ nhất, Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 về đột phá, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia tháo gỡ các “điểm nghẽn” về thể chế, quản lý, tài chính, phát triển giáo dục và đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh nguồn lực KHCN và ĐMST, thực hành dân chủ, thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy mạnh CNH, HĐH trên nền tảng tiến bộ KHCN, thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 trên cơ sở phát triển mạnh mẽ KHCN và ĐMST để tạo động lực tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước bền vững.

Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, xây dựng cơ chế đặc thù để khuyến khích và thúc đẩy ĐMST trong khu vực doanh nghiệp tư nhân cũng như khu vực công, nhất là hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới công nghệ, chuyển đổi số trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ công. Đặc biệt, cần sử dụng hiệu quả công cụ ưu đãi về thuế nhằm thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài phát triển các lĩnh vực KHCN và hoạt động ĐMST, chuyển giao khoa học, công nghệ. Thực thi có hiệu quả Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa… tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển KHCN, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp sáng tạo, công nghiệp hỗ trợ,… Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp, thể hiện sự tôn trọng đặc thù của lao động sáng tạo. Cần có tư duy mở trong việc chấp nhận rủi ro và độ trễ trong khoa học, dỡ bỏ các rào cản duy ý chí và hành chính hóa hoạt động KHCN.

Thứ ba, phát huy dân chủ trong hoạt động KHCN và ĐMST, trong đó, cần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hoạt động KHCN và ĐMST trong các tổ chức KHCN công lập theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Tăng cường mối liên hệ, hợp tác giữa các tổ chức KHCN với doanh nghiệp trong nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao thành tựu KHCN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Tăng cường vai trò của các cơ sở giáo dục đại học trong cả nước, đặc biệt là các trường đại học trọng điểm quốc gia, các đại học vùng trong phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và ĐMST gắn với phát triển tiềm năng, lợi thế của các địa phương, nhằm tạo “chìa khóa” cho các địa phương phát triển kinh tế xã hội, dựa vào khai thác hiệu quả nguồn lực, thế mạnh của địa phương.

Thứ tư, phát triển giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KHCN, trọng dụng và có chính sách đãi ngộ, tôn vinh, thu hút các nhà khoa học Việt Nam có uy tín đang làm việc ở nước ngoài và các nhà khoa học quốc tế có thể đóng góp phù hợp vào sự phát triển khoa học của đất nước thông qua các cơ chế hợp tác đa dạng, như: tham gia giảng dạy, nghiên cứu, nhận hướng dẫn nghiên cứu sinh Việt Nam... để đào tạo đội ngũ nghiên cứu trong nước tiếp cận với KHCN tiên tiến, hội nhập thế giới.

Khuyến khích thu hút, tạo nguồn cán bộ khoa học từ sinh viên xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ; hỗ trợ phát triển các nhóm nghiên cứu trẻ, có tiềm năng; khuyến khích khu vực tư nhân và các doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực KHCN và ĐMST; tăng cường cơ chế hợp tác công - tư trong đào tạo nhân lực KHCN.

Thứ năm, tận dụng thời cơ của xu hướng toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế và nắm bắt thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm phát triển đột phá về KHCN và ĐMST thông qua việc thực hiện các hiệp định thương mại đa phương, song phương; giao lưu, hợp tác quốc tế về giáo dục, nghiên cứu khoa học, chuyển giao, ứng dụng KHCN tiên tiến, hiện đại, đưa KHCN và ĐMST của Việt Nam tiệm cận chuẩn mực quốc tế. Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế để thành lập các trung tâm nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhằm tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động giao lưu, hợp tác về nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Phát triển mạng lưới trí thức trong lĩnh vực KHCN và ĐMST Việt Nam ở nước ngoài, trở thành “mắt xích” quan trọng kết nối nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và ĐMST trên phạm vi toàn cầu.

3. Kết luận

KHCN và ĐMST có vai trò quan trọng trong nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển KHCN và ĐMST, cần phát huy vai trò của cơ quan quản lý nhà nước, tháo gỡ các “điểm nghẽn” về thể chế; phát triển giáo dục và đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh nguồn nhân lực KHCN và ĐMST; thực hành dân chủ; hoàn thiện chính sách, với những cơ chế đặc thù để khuyến khích và thúc đẩy ĐMST; phát huy dân chủ trong hoạt động KHCN và ĐMST; phát triển tổ chức KHCN công lập theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm; tăng cường hợp tác quốc tế, thúc đẩy hội nhập sâu rộng trong lĩnh vực KHCN.

_________________

Ngày nhận bài: 28-3-2025; Ngày bình duyệt: 04-4-2025; Ngày duyệt đăng: 29-9-2025.

Email tác giả: huongnguyenthai26@gmail.com

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.401.

(2), (3), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, sđd, tr.504, 504, 51.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, sđd, tr.72-73.

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, sđd, tr.460.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, sđd, tr.617.

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, sđd, tr.378.

(9), (10), (11), (12), (13) Bộ Khoa học và Công nghệ: Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2023, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, 2024, tr.67, 68, 69, 77, 77.

(14), (15), (16) Bộ Khoa học và Công nghệ: Dự thảo Báo cáo tổng kết thi hành Luật Khoa học và công nghệ, 2024, tr.25, 25, 25.

(17) Văn Phong - Mai Hà: Việt Nam tăng 2 bậc xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2024, https://www.qdnd.vn/, ngày 26-9-2024.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển khoa học, kỹ thuật và sự vận dụng trong thời kỳ đổi mới
    POWERED BY