Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Phản bác những luận điệu xuyên tạc việc thực hiện chính sách công bằng xã hội ở Việt Nam

17/01/2025 10:33

(LLCT) - Những thành tựu phát triển của Việt Nam trong quá trình đổi mới đã chứng minh giá trị bất hủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có giá trị về công bằng xã hội. Điểm nổi bật trong sự sáng tạo lý luận về công bằng xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam là luôn quan tâm đến người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau, trên cơ sở bình đẳng, công bằng về cơ hội phát triển. Chính thành tựu lý luận và thực tiễn này đã phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

PGS, TS NGUYỄN MINH HOÀN
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Tăng cường công tác phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số - cơ sở quan trọng để thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc_ Ảnh: tuyengiao.vn

1. Sự bất công và bất bình đẳng của xã hội tư bản chủ nghĩa là không thể che đậy

Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga chính là sự hiện thực hóa học thuyết của chủ nghĩa Mác, mở ra tương lai tươi sáng cho sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, xây dựng nên một hệ thống của các nước XHCN hiện thực, mang lại sự tự do, công bằng đích thực cho xã hội loài người. Tuy nhiên, lợi dụng tình huống CNXH ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào, các thế lực chống phá đã xuyên tạc, bóp méo giá trị lý luận và thành tựu thực tiễn của CNXH. Từ đó, dấy lên cái gọi là tiến bộ và công bằng xã hội chỉ có trong chủ nghĩa tư bản (CNTB) và cho rằng đó mới là giá trị nhân loại vĩnh viễn. Song, thực chất cái gọi là “công bằng xã hội” đạt được trong CNTB đó đã được trả lời qua bối cảnh thế giới đầy biến động ngày nay.

Để chỉ ra bản chất của cái gọi là “công bằng” trong CNTB, các nhà kinh điển mácxít đã sớm chỉ ra, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nguyên tắc trao đổi ngang giá đã bị đồng nhất với cái gọi là sự công bằng. Trong nền kinh tế thị trường tư bản, quan hệ trao đổi ngang giá được thực hiện đối với mọi hàng hóa nói chung, trong đó có hàng hóa sức lao động. Về mặt danh nghĩa, hàng hóa sức lao động trong CNTB đã thuộc sở hữu của chính người lao động, nên tưởng chừng người lao động đã được tự do định đoạt đối với lao động của chính mình. Nghĩa là người lao động đã thực sự được giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào ruộng đất của chủ đất, khỏi lao động cống nạp như thời kỳ phong kiến; và nhờ đó người công nhân trong CNTB được tham gia một cách tự do, bình đẳng vào quan hệ mua bán sức lao động với nhà tư bản, được toàn quyền quyết định bán hay không bán sức lao động của mình cho nhà tư bản trên cơ sở “thuận mua, vừa bán” theo đúng quy luật của thị trường.

Vì vậy, nhìn bề ngoài, quan hệ phân phối sản phẩm giữa nhà tư bản và người công nhân dựa trên sự đóng góp công sức của cả nhà tư bản và người công nhân vào việc làm ra sản phẩm là hoàn toàn công bằng và việc giai cấp tư sản coi nguyên tắc trao đổi ngang giá chính là thước đo của công bằng xã hội không phải là không có lý. Song, nếu xem xét kỹ thì sự thực lại hoàn toàn không phải như vậy. C.Mác đã chỉ rõ: “Giá trị hàng hóa được quy định bởi lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Nhưng tuy vậy, người ta thấy rằng trong thế giới tội lỗi của chúng ta hàng hóa được bán ra lúc cao, lúc thấp hơn giá trị của nó, vả lại không chỉ do những dao động bắt nguồn từ cạnh tranh”(1). Bởi vậy, trong quan hệ mua - bán sức lao động giữa nhà tư bản và người công nhân, nhà tư bản ở thế mạnh, vì anh ta sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất, còn người công nhân ở thế yếu, vì chỉ sở hữu sức lao động của mình. Điều đó buộc người công nhân phải bán sức lao động thấp hơn giá trị của nó. Vì thế, việc người công nhân chỉ nhận được phần tiền công ngang bằng với giá cả được đem bán trên thị trường thực ra là sự trao đổi không ngang giá chứ không phải là ngang giá, nghĩa là quan hệ bất công.

Phải chăng sau nhiều sự điều chỉnh, đến nay CNTB đã hoàn toàn khắc phục được sự bất công xã hội để đi đến một xã hội vượt xa trước đây. Về điều này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đặt câu hỏi: “Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?”(2).

Trả lời cho câu hỏi này, Tổng Bí thư đã đi sâu phân tích để chỉ ra căn nguyên và nêu rõ: “Từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, CNTB thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách “tự do mới” trên quy mô toàn cầu, nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt, năm 2008-2009, chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công. Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(3).

Sự biến đổi trong thế giới ngày nay càng cho thấy bản chất của CNTB, mặc dù luôn mệnh danh cho một xã hội của sự tiến bộ và công bằng, song về bản chất vẫn không hề thay đổi. Bản chất đó của CNTB đã luôn đẩy con người đến sự tha hóa, bất công, bất bình đẳng và phản tiến bộ. Sâu sắc hơn nữa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn vạch rõ: “Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế”(4)

Những điều phân tích sâu sắc ấy càng thể hiện tầm nhìn thấu đáo của nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, bằng tư duy lý luận của một người mácxít xuất sắc đã chỉ rõ về sự tiến bộ và công bằng xã hội đích thực chỉ có trong CNXH.

Phản ánh thực chất của sự đi ngược giá trị con người thể hiện ở sự vi phạm công bằng xã hội, trong đó có công bằng về điều kiện phát triển, Báo cáo phát triển con người năm 1996 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã thảo luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, nhấn mạnh rằng, cần tận dụng khả năng trong tiến trình hiện đại hóa để tránh tình trạng “tăng trưởng không phát triển” dẫn đến sự bất bình đẳng sâu sắc của xã hội.

Thứ nhất, tăng trưởng nhưng không có việc làm (jobless growth). Việc làm có nghĩa sự bảo đảm của cuộc sống. Không có việc làm đồng nghĩa với việc tước đi năng lực sống cũng như năng lực phát triển của một cá nhân. Tất nhiên, thiếu cơ hội việc làm có thể kéo theo sự tăng trưởng chậm của kinh tế. Tuy nhiên, ngay cả các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh cũng thường không tạo ra đủ cơ hội việc làm. Thí dụ, ở Pakítxtan, từ năm 1975-1992, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực tế mỗi năm tăng trung bình 6,3%, trong khi việc làm chỉ tăng 2,4%. Tệ hơn, từ năm 1986-1991, GDP của Ghana mỗi năm tăng trung bình 4,8%, trong khi việc làm lại giảm hơn 13%.

Thứ hai, tăng trưởng câm (voiceless growth). Sự tham gia và quản lý của người dân vào công việc chung, sự tự do bày tỏ ý kiến và quan điểm của họ, là một phương diện quan trọng về sự phát triển con người. Tuy vậy, tăng trưởng kinh tế không phải lúc nào cũng song hành với sự mở rộng dân chủ và tự do. Một số quốc gia kinh tế tăng trưởng rất nhanh, song còn xa mới đạt tới dân chủ và tự do. Dân chủ và tăng trưởng không loại trừ lẫn nhau, mà có xu hướng tăng cường lẫn nhau. Dân chủ cũng có thể thúc đẩy tăng trưởng.

Thứ ba, tăng trưởng tàn nhẫn (vô cảm) (ruthless growth). Ở nhiều quốc gia đang phát triển, đặc biệt là ở Mỹ Latinh, mặc dù tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập cũng ngày càng gia tăng. Lợi ích gia tăng phần lớn rơi vào tay người giàu, trong khi tình trạng của người nghèo không được cải thiện bao nhiêu; thậm chí số lượng và tỷ lệ người nghèo ngày một tăng lên. Từ năm 1970-1985, thu nhập toàn cầu tăng 40%, trong khi số người nghèo lại tăng 17%. Từ năm 1965-1980, số lượng người giảm thu nhập là 200 triệu; từ năm 1980-1993, con số này đã vượt 1 tỷ người.

Thứ tư, tăng trưởng mất (không có) gốc (rootless growth). Thế giới có hơn 10.000 nền văn hóa, điều này làm cho cuộc sống của các dân tộc và các tộc người đa dạng, phong phú. Một mô hình tăng trưởng có tính dung nạp và tính tham gia, có thể bồi đắp và tăng cường truyền thống văn hóa, khiến cho các dân tộc và các tộc người khác nhau được thụ hưởng tính đa dạng của văn hóa.

Tuy nhiên, một mô hình tăng trưởng có tính bài ngoại và tính kỳ thị có thể phá hủy tính đa dạng văn hóa và do đó làm suy giảm chất lượng cuộc sống của con người. Trong thế giới ngày nay, nhiều ý kiến cho rằng văn hóa truyền thống gây nên sự phiền toái, rườm rà cho hiện đại hóa và phát triển, do đó đã áp chế văn hóa truyền thống dân tộc và văn hóa của các dân tộc thiểu số.

Thứ năm, tăng trưởng không có (bất chấp) tương lai (futureless growth). Đó là tăng trưởng bất chấp cạn kiệt tài nguyên và ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống của con người. Hiện nay, trong quá trình tăng trưởng kinh tế, không ít quốc gia đã phá rừng, gây ô nhiễm môi trường, hủy diệt đa dạng sinh học và làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Nó không chỉ làm tổn hại đến điều kiện sống và sức khỏe của thế hệ hiện tại, mà còn gây thiệt hại to lớn cho sự phát triển các thế hệ mai sau.

Sự bất công và bất bình đẳng sâu sắc của xã hội TBCN đã không thể che đậy. Hơn nữa, với bản chất bóc lột, CNTB đương nhiên không tự giải quyết được những vấn đề đã nảy sinh từ chính bản chất của nó.

2. Cơ sở quy định và tính ưu việt của chế độ xã hội luôn bảo đảm thực hiện công bằng đích thực ở Việt Nam

Để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội thực sự ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn căn cứ vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác và vận dụng vào thực tiễn của đất nước. Trên cơ sở tổng kết quá trình phát triển đất nước trong những năm qua, đồng thời xuất phát từ việc thực hiện kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm, phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực nội sinh của sự phát triển, Đại hội XIII của Đảng xác định thực hiện công bằng xã hội là cơ sở bảo đảm cho mục tiêu kép, cả về hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.

Để đạt được mục tiêu kép của công bằng xã hội, Đại hội XIII không chỉ nhấn mạnh vai trò của Nhà nước, mà còn nhấn mạnh việc phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, cùng tham gia xử lý những bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường. Đây cũng chính là cơ sở để phấn đấu sớm hoàn thành các mục tiêu đến năm 2030 vì sự phát triển bền vững. Đại hội XIII nêu rõ: “Phát triển vì con người, tạo điều kiện cho mọi người, nhất là trẻ em, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, người di cư hòa nhập, tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, cùng phát triển”(5).

Khẳng định vai trò của phát triển kinh tế trong việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh… Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”(6).

Xuất phát từ nền tảng kinh tế cùng với những đặc trưng của CNXH mà Việt Nam đang xây dựng, nhất là về giá trị của công bằng xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã làm nổi bật: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(7).

Như vậy, thực hiện công bằng xã hội và tiến bộ xã hội là cốt lõi trong mục tiêu tổng thể của sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam. Hơn nữa, để xây dựng thành công CNXH, trong đó nhấn mạnh đến gắn công bằng xã hội với phát triển văn hóa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng sâu sắc chỉ ra: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao”(8); “Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh”(9).

Văn hóa cũng bao hàm sự ứng xử của con người với tự nhiên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”(10).

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn thực hiện công bằng xã hội, Đại hội XIII nhấn mạnh phải nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng XHCN trong các chính sách xã hội, trên cơ sở gắn chính sách phát triển kinh tế với chính sách xã hội, quan tâm lĩnh vực công tác xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đây là quan điểm đúng đắn của Đảng trong nhận thức và trong thực tiễn thực hiện công bằng xã hội, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, cũng như tăng cường tiềm lực của đất nước. Theo đó, cần tăng cường quản lý xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội bền vững, hài hòa, từ thực hiện công bằng về cơ hội phát triển; đồng thời, kiểm soát được sự phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH với mục tiêu thực hiện công bằng xã hội ngay từ cơ hội phát triển đã khơi dậy và phát huy tiềm năng phát triển con người Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Đây cũng chính là động lực để nước ta phát triển nhanh, bền vững và hướng tới thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2023

Ngày nhận bài: 15-11-2023; Ngày bình duyệt: 12-12-2023; Ngày duyệt đăng: 20-12-2023.

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.21, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,1995, tr.273.

(2), (3), (4), (6), (7), (8), (9), (10) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.18, 19, 19-20, 26, 27, 27, 27-28, 21.

(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 264.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Phản bác những luận điệu xuyên tạc việc thực hiện chính sách công bằng xã hội ở Việt Nam
    POWERED BY