(LLCT) - Tư tưởng Hồ Chí Minh về y tế thể hiện sâu sắc quan điểm toàn diện trong chăm lo sức khỏe nhân dân. Bài viết tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh dưới góc nhìn của quan điểm toàn diện, từ đó rút ra giá trị bền vững khi vận dụng trong xây dựng nền y tế hiện đại; bổ sung cơ sở lý luận cho chính sách xã hội, đồng thời định hướng chính sách y tế theo tinh thần toàn diện, nhân văn và phát triển bền vững.
ThS TRẦN TRUNG CHUNG
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
1. Mở đầu
Lĩnh vực y tế luôn giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người không chỉ quan tâm đến công tác phòng bệnh, chữa bệnh, mà còn đặt y tế trong mối quan hệ mật thiết với chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Tiếp cận từ quan điểm toàn diện cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về y tế không dừng ở phạm vi chuyên ngành, mà còn phản ánh sự kết hợp chặt chẽ giữa mục tiêu nhân đạo, tính khoa học và tính đại chúng. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về y tế góp phần làm sáng rõ giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân trong bối cảnh hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Quan điểm toàn diện
Theo Từ điển tiếng Việt, toàn diện là bao quát đầy đủ mọi mặt, mọi phương diện cần thiết. Quan điểm toàn diện là một trong những nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật, yêu cầu nhận thức hoặc giải quyết vấn đề phải xem xét sự vật trong tổng thể các mối liên hệ, các mặt đối lập, không phiến diện hay cục bộ.
Lịch sử triết học ở cả phương Đông, phương Tây và triết học mácxít có sự khác nhau trong nhận thức về quan điểm toàn diện. Trong triết học phương Đông, nguyên tắc toàn diện không chỉ là một phương pháp luận mà còn là một tư tưởng cốt lõi, thể hiện cách nhìn nhận thế giới và con người một cách tổng thể, đa chiều. Triết học Trung Hoa cổ đại (Nho giáo, Đạo giáo) đã phát triển tư tưởng toàn diện thông qua học thuyết âm dương - ngũ hành. Theo thuyết này, âm - dương đại diện cho hai mặt đối lập và thống nhất, cùng tồn tại trong mọi sự vật.
Trong dòng chảy tư tưởng Việt Nam, quan điểm toàn diện không được trình bày như một hệ thống lý luận trừu tượng, mà biểu hiện qua lối tư duy thực tiễn, linh hoạt, gắn bó chặt chẽ với đời sống và kinh nghiệm dân gian. Người Việt coi con người là một phần trong vũ trụ, không đối lập với tự nhiên mà hài hòa cùng thiên nhiên: “Thuận thiên giả tồn” (thuận theo trời thì sống). Quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng luôn được đặt trong một tổng thể thống nhất, không tách rời: “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Đây là biểu hiện rõ của tư duy toàn diện: cá nhân không thể tồn tại biệt lập, mà là một mắt xích trong mạng lưới xã hội. Trong ứng xử và giải quyết vấn đề, người Việt có lối tư duy tổng hòa, không thiên lệch: “Dĩ hòa vi quý”, tức xử lý mâu thuẫn bằng sự dung hòa, tránh cực đoan. Coi trọng sự phối hợp giữa nhiều yếu tố để đạt hiệu quả: “Có thực mới vực được đạo”, tức là kết hợp giữa đời sống vật chất và tinh thần. Điều này phản ánh rõ tư duy toàn diện trong việc nhìn nhận các giá trị nhân sinh một cách không tách rời.
Quan điểm toàn diện là một trong những nguyên lý phương pháp luận cơ bản của triết học Mác - Lênin, xem xét sự vật trong mối liên hệ với các sự vật khác và với các mặt khác nhau của chính nó. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lênin dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phép biện chứng duy vật. Theo đó, mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một hệ thống, một chỉnh thể, chịu sự tác động qua lại, không có gì tồn tại đơn lẻ. Do vậy, khi nghiên cứu đối tượng cụ thể cần tuân thủ nguyên tắc toàn diện.
Nguyên tắc toàn diện yều cầu: Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó, cần nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó. Thứ hai, chủ thể nghiên cứu phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại. Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định. Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung.
Tiếp thu quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng phương Đông và Việt Nam, Hồ Chí Minh đã hình thành nên quan điểm toàn diện khoa học, nhân văn, giải quyết vấn đề cốt yếu nhất của cách mạng Việt Nam là giành độc lập cho dân tộc và xây dựng chế độ mới. Người viết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(1). Theo Người, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì phải theo cách mạng vô sản; muốn có Đảng thì phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng… Đây là cách nhìn toàn diện từ mục tiêu, lực lượng, phương pháp và điều kiện để thành công. Trong cách nhìn nhận về con người, Hồ Chí Minh cho rằng, con người Việt Nam phát triển toàn diện là một thể thống nhất, kết hợp chặt chẽ các yếu tố, các mặt: đức, trí, thể, mỹ, tạo nên phẩm chất và năng lực (“Đức” và “Tài”) để “chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn”(2).
2.2. Quan điểm toàn diện của Hồ Chí Minh về y tế
Quan điểm sức khỏe toàn diện cả về thể chất và tinh thần
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sức khỏe bao gồm sự lành mạnh cả về thể xác (vật chất) lẫn tinh thần. Người định nghĩa: “Ngày nào cũng tập thì khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khỏe”(3). Hồ Chí Minh nhìn nhận sức khỏe không chỉ là không bệnh tật, mà còn là sự cân bằng toàn diện, về thể chất: luyện tập, ăn uống điều độ, vệ sinh cá nhân và môi trường; về tinh thần: lạc quan, tư tưởng lành mạnh; về đạo đức: sống trong sạch, vị tha, không sa ngã vào thói xấu. Người dạy: “Phải rèn luyện thân thể cho khỏe mạnh. Khỏe mạnh thì mới có đủ sức để tham gia một cách dẻo dai bền bỉ những công việc ích nước lợi dân”(4).
Luận điểm này thể hiện rõ tư duy biện chứng, toàn diện, mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần trong sự tồn tại của con người. Đây đồng thời là tư tưởng phát triển con người toàn diện, hòa quyện giữa thể - trí - đức. Sau này, định nghĩa sức khỏe của Tổ chức Y tế thế giới trong Tuyên ngôn Alma Ata năm 1978 là: “Sức khỏe là trạng thái hoàn toàn thoải mái về tâm hồn, về thể xác, về xã hội”(5), nghĩa là hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và quan hệ xã hội, chứ không chỉ là tình trạng không có bệnh tật.
Hồ Chí Minh đã tiếp cận được tinh thần mácxít về con người. Bản chất con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội, vì vậy việc chăm lo sức khỏe con người phải bằng cả biện pháp vật chất và biện pháp tinh thần. Người đặt vấn đề: “Làm thế nào cho đời sống của nhân dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn”(6). Trong thư gửi Hội nghị quân y tháng 3-1948, Người viết: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”(7). Điều đó cho thấy, bảo vệ sức khỏe là bảo vệ cuộc sống toàn diện, cả vật chất lẫn tinh thần.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo sức khỏe bản thân cả thể chất lẫn tinh thần. Tố Hữu kể rằng, về vấn đề ăn uống, Bác thường ăn cá kho, rau luộc, quả chín, sữa tươi, rất ít thịt. Người thường uống nước chè, có khách mới uống tí rượu nhẹ. Trước kia Bác có hút thuốc lá, ngày mấy điếu, nhưng khi bác sĩ khuyên thì Bác bỏ luôn. Về mặc, Bác thường dùng áo mỏng vào mùa hè, áo len vào mùa đông loại rẻ tiền, Bác đi dép quanh năm, không thích đi giày da, chỉ đi giày vải mùa lạnh. Nhà ở của Bác là nhà sàn lộng gió, có vườn cây, ao cá. Bác làm việc rất có giờ giấc, không tùy tiện. Sáng nào Bác cũng tập thể dục, đi bộ thong thả, hít thở không khí trong lành…(8).
Không chỉ nêu quan điểm, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là hiện thân của tinh thần lạc quan, yêu nước, niềm tin sắt đá ở lý tưởng cách mạng và nghị lực vô biên trước mọi thử thách, giúp Người vượt qua bệnh hiểm nghèo và giữ vững sức khỏe đến cuối đời.
Quan điểm toàn diện về quan hệ giữa sức khỏe cá nhân và sức mạnh dân tộc
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò sức khỏe của con người, coi đây là nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi sự nghiệp cách mạng. Người chỉ rõ: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công”(9). Trong thời kỳ lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân, Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân được đảm bảo thì tinh thần càng hăng hái”(10). Người chỉ rõ: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe… Dân cường thì quốc thịnh”(11).
Xuất phát từ tầm quan trọng của sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức đầy đủ vai trò của ngành y tế trong trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Người nhấn mạnh, y tế là “một mặt trận”, cán bộ y tế là “chiến sĩ áo trắng”. Nhiệm vụ cao cả nhất của ngành y là chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, phòng bệnh hơn chữa bệnh, đưa y tế về với cơ sở, phục vụ đồng bào miền núi, vùng sâu vùng xa. Khi đề cập đến xây dựng chế độ xã hội mới - XHCN, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ”(12). “Ốm đau có thuốc” ở đây chính là nhiệm vụ của ngành y tế.
Sau bầu cử năm 1946, với sự ra đời của Quốc hội kháng chiến và kiến quốc ngày 02-3-1946 và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 27-3-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ tọa phiên họp Chính phủ, nghe báo cáo tổ chức bộ máy của Bộ Xã hội. Ngay trong ngày, Người ký Sắc lệnh số 36-SL quy định tổ chức Bộ Xã hội, trong đó có Nha y tế Trung ương, tiền thân của Bộ Y tế ngày nay. Theo Hồ Chí Minh, mục đích xây dựng nền y tế là hướng đến phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Người căn dặn: “Cũng như các ngành chuyên môn khác, cũng như toàn thể đồng bào, anh em y tế đã cố gắng, ta còn phải cố gắng thêm. Trong cuộc Thi đua ái quốc này, tôi mong rằng nhân viên y tế sẽ là một trong những đội xung phong hăng hái”(13). Trong thư gửi Hội nghị cán bộ y tế toàn quốc năm 1953, Người nhấn mạnh, “y tá là những chiến sĩ đánh giặc ốm”(14) và “đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang”(15). Trong kháng chiến chống Pháp, Bác yêu cầu: tổ chức y tế trong vùng tự do và cả vùng địch hậu; đào tạo cán bộ y tế nhanh chóng, kịp thời cho nhu cầu chiến trường; gắn y tế với hậu cần chiến đấu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: y tế là “một mặt trận”, cán bộ y tế là “chiến sĩ áo trắng”.
Quan điểm toàn diện về xây dựng nền y học mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng
Từ giữa thế kỷ XIX, y học hiện đại chiếm ưu thế gần như tuyệt đối. Đối với y học cổ truyền dân tộc, khi mà những kinh nghiệm chữa trị bằng Đông y, thuốc Nam dần bị quên lãng thì Hồ Chí Minh lại nhắc nhở: “Y học càng phải dựa trên nguyên tắc: khoa học, dân tộc, đại chúng”(16). Quan điểm này có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng phát triển nền y học nước nhà, đồng thời thể hiện tư duy biện chứng, toàn diện, nhìn nhận y học dân tộc là một bộ phận của y học thế giới.
Hồ Chí Minh giải thích, khi chữa bệnh cho con người phải dựa vào những căn cứ khoa học, đồng thời phải biết nghiên cứu kinh nghiệm của dân tộc và phải biết mình đang chữa chạy cho người Việt Nam, sống trên mảnh đất Việt Nam. Người rất quan tâm đến kinh nghiệm của nhân dân trong giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đặt ra, nhưng không vì thế mà bó hẹp y học cổ truyền dân tộc. Người dạy: “Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc “Đông” và thuốc “Tây””(17), phải biết quý trọng và phát triển y học dân tộc, kết hợp Đông Tây y để chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng tốt hơn.
Bằng lao động cần cù và tài năng của mình, người xưa đã đúc kết được rất nhiều kinh nghiệm phòng bệnh và chữa bệnh mà Tuệ Tĩnh gọi là thuốc Nam, Hồ Chí Minh gọi là “thuốc ta”. Một nước độc lập cần có đường lối phát triển y tế, y học tiên tiến, phù hợp với đường lối chính trị và điều kiện của đất nước. Người khẳng định y học là một khoa học, hơn nữa là khoa học về con người. Điều này đòi hỏi ngành y tế phải không ngừng học tập, nghiên cứu và vận dụng những kiến thức y học tiên tiến của thế giới, phấn đấu vươn lên đạt trình độ khoa học quốc tế và cứu chữa bệnh hiệu quả cho nhân dân, kể cả những bệnh khó. Người đặc biệt nhấn mạnh việc kết hợp giữa Đông y và Tây y.
Quan điểm toàn diện phòng bệnh kết hợp với chữa bệnh
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng y học dự phòng. Trong bài Vệ sinh yêu nước, Người viết: “Nếu tính lại mỗi năm Chính phủ và nhân dân ta tốn bao nhiêu tiền thuốc men, mất bao nhiêu ngày lao động, thì sẽ thấy ruồi muỗi đã gây nên một số tổn thất khổng lồ”… Chịu khó tiêu diệt ruồi muỗi, hơn là để ruồi muỗi gây ra ốm đau rồi phải uống thuốc”(18). Như vậy, xét trên phương diện xã hội, việc ngăn ngừa, hạn chế dịch bệnh là hết sức quan trọng, vừa giảm lãng phí trên phạm vi toàn xã hội, vừa giúp Nhà nước tập trung kinh phí cho các vấn đề cấp bách hơn của ngành y tế.
Để làm tốt công tác dự phòng, Người đề xuất nhiều phương pháp thực hiện như tiêm chủng, vệ sinh môi trường, tuyên truyền xóa nạn mù chữ về sức khỏe… Người yêu cầu: cần đặc biệt chú ý phòng bệnh, tuyên truyền, giải thích cho đồng bào chung quanh… biết cách giữ gìn vệ sinh, làm cho mọi người bệnh biết cách phòng bệnh cho họ và gia đình. Người luôn chú ý đến vấn đề vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường sống, vì đây là hai mặt của một vấn đề thống nhất, có quan hệ biện chứng, ảnh hưởng trực tiếp đến nhau. Nếu chỉ lo vệ sinh cá nhân, xem nhẹ vệ sinh môi trường xung quanh, không thấy rõ tác nhân gây bệnh và ngược lại, việc vệ sinh không triệt để, khả năng mắc bệnh vẫn tồn tại. Điều này cho thấy sự phụ thuộc lẫn nhau để đạt hiệu quả toàn diện trong phòng bệnh.
Để chống lại bệnh tật, đau ốm, Hồ Chí Minh quan tâm đến những vấn đề rất nhỏ về vệ sinh môi trường như nước sạch, hố xí vệ sinh, diệt ruồi, muỗi... Người đề nghị, mọi người từ già đến trẻ, trai gái, đã là người dân yêu nước đều phải quan tâm đến vấn đề vệ sinh, giữ gìn sức khỏe. Trong năm điều dạy thiếu niên nhi đồng, Người cũng căn dặn các cháu phải “gắng giữ gìn vệ sinh”(19).
Quan điểm toàn diện về sự thống nhất giữa đức và tài trong y đức
Khi bàn về đức và tài đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng, điều đó hoàn toàn đúng trong vai trò là người thầy thuốc vì sự nghiệp chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Người chỉ rõ giữa đức và tài có mối quan hệ biện chứng, toàn diện, tác động qua lại lẫn nhau: có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, bởi tài năng là phương tiện để thực hiện hành động; có tài mà không đó đức là người vô dụng.
Trong y đức, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao yếu tố “đức”, coi đây là cội rễ bền vững để hình thành một người thầy thuốc chân chính. Người căn dặn: “Lương y phải như từ mẫu”(20), đây là một châm ngôn bất hủ, là tiêu chí lý tưởng và là yêu cầu hàng đầu mà Người đặt ra cho cán bộ ngành y tế. Những người làm công tác y tế phải có: Một là, lòng nhân ái, yêu thương người bệnh, coi người bệnh “như anh em ruột thịt”(21); Hai là, có tinh thần trách nhiệm và phục vụ, bởi “Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang”(22); Ba là, phải thật thà đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, giữa tất cả những người trong ngành y tế, bởi vì “người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân”(23). Trong mối quan hệ với “đức”, Người cho rằng, “tài” là điều kiện để hiện thực hóa “đức”. Người khuyến nghị, cán bộ y tế “Cần luôn luôn học tập nghiên cứu để luôn luôn tiến bộ, nhưng phải chú trọng cái gì thiết thực và thích hợp với hoàn cảnh”( 24).
2.3. Giá trị quan điểm toàn diện của Hồ Chí Minh về y tế
Tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh về tính toàn diện của sức khỏe bao gồm cả vật chất và tinh thần, có ý nghĩa liên quan trực tiếp đến việc định hướng xây dựng con người phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, từ đó đặt ra nhiệm vụ phải đổi mới cách tiếp cận trong chăm sóc y tế, chuyển từ chữa bệnh sang chăm sóc sức khỏe toàn diện.
Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt mối quan tâm đến “cái ăn, cái mặc, cái ở và học hành” của nhân dân lên hàng đầu. Người yêu cầu Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân.
Trong xây dựng và phát triển ngành y tế hiện nay cần theo hướng toàn diện, nghĩa là cần cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe một cách liên tục, đồng bộ, lồng ghép và lấy người dân làm trung tâm, bao gồm cả chăm sóc thể chất, tinh thần, phòng bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng và chăm sóc cuối đời (theo định nghĩa của Bộ Y tế về chăm sóc y tế toàn diện). Nội dung chăm sóc y tế toàn diện: về sức khỏe thể chất: thực hiện chăm sóc từ dự phòng đến chẩn đoán, điều trị và phục hồi chức năng; tăng cường y tế cơ sở, khám chữa bệnh ban đầu; phát triển y học gia đình, mô hình bác sĩ gia đình; về sức khỏe tinh thần: đưa chăm sóc sức khỏe tâm thần vào hệ thống y tế cộng đồng, triển khai các chương trình phát hiện sớm, điều trị và hòa nhập cộng đồng cho người mắc rối loạn tâm thần; tuyên truyền nâng cao nhận thức, giảm kỳ thị với bệnh tâm thần; về chăm sóc toàn diện theo vòng đời: chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi, người mắc bệnh mãn tính; tăng cường dịch vụ tâm lý học đường, chăm sóc sức khỏe tinh thần thanh thiếu niên; thúc đẩy chăm sóc tại nhà, chăm sóc cuối đời nhân đạo.
Tuy nhiên, công tác này hiện nay đang đứng trước nhiều thách thức do thiếu nhân lực chuyên ngành tâm thần, sự kỳ thị xã hội và nhận thức còn hạn chế. Thời gian tới, Bộ Y tế hướng tới thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển chuyên ngành tâm lý lâm sàng, đưa dịch vụ tư vấn sức khỏe tinh thần vào bảo hiểm y tế, ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý sức khỏe toàn dân.
Tính biện chứng trong quan điểm toàn diện của Hồ Chí Minh thể hiện rõ nhất ở sự hòa quyện, bổ sung và thống nhất chặt chẽ giữa ba yếu tố dân tộc, khoa học, đại chúng, làm định hướng cho việc xây dựng nền y học Việt Nam, vừa phát huy thế mạnh y học cổ truyền, vừa hiện đại, nhằm thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế cho mọi người dân, đồng thời bảo đảm tính tiện lợi, chi phí hợp lý để mọi tầng lớp đều có thể tiếp cận.
Quán triệt quan điểm của Hồ Chí Minh, ngành y tế nước ra đang từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý, tổ chức thực hiện để kết hợp tốt những thành tựu của y học cổ truyền với y học hiện đại trong khám chữa bệnh. Các chủ trương của Trung ương, như: Chỉ thị số 24‑CT/TW ngày 04-7-2008 về phát triển nền đông y Việt Nam và Hội đông Y Việt Nam trong tình hình mới; Nghị quyết số 20‑NQ/TW ngày 25-10-2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; Kết luận số 86‑KL/TW ngày 10-7-2024 của Ban Bí thư về phát triển nền y học cổ truyền Việt Nam và Hội Đông y Việt Nam trong giai đoạn mới đều nhấn mạnh phát triển y học cổ truyền gắn kết hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phù hợp với chiến lược ngành y tế hiện đại hóa hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Tính biện chứng trong sự thống nhất và tương hỗ của y học dự phòng, phòng bệnh và chữa bệnh thể hiện tư duy toàn diện và phát triển bền vững của ngành y tế trong thời kỳ mới: phòng bệnh là gốc, chữa bệnh là ngọn. Phòng bệnh hiệu quả sẽ giảm gánh nặng chữa bệnh, giảm chi phí xã hội, tăng tuổi thọ và chất lượng cuộc sống. Ngược lại, chữa bệnh đạt kết quả tốt góp phần quan trọng vào công tác phòng bệnh. Điều này thể hiện sự tương tác, bổ sung giữa hai mặt, nơi thành tựu ở một mặt thúc đẩy sự phát triển của mặt kia.
Nghị quyết số 20-NQ/TW, nêu: lấy phòng bệnh là chính, kết hợp hiệu quả giữa phòng bệnh và chữa bệnh, giữa y học cổ truyền và y học hiện đại, giữa y học dự phòng và y học lâm sàng; Xây dựng hệ thống y tế theo hướng y học dự phòng; Phát triển mô hình chăm sóc sức khỏe toàn diện, suốt vòng đời; Tăng đầu tư cho tuyến y tế cơ sở để thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc ban đầu(25). Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi năm 2023) nêu quan điểm bảo đảm kết hợp giữa phòng bệnh - chữa bệnh - phục hồi chức năng - chăm sóc sức khỏe lâu dài, vì vậy, cần bổ sung các quy định pháp lý nhằm tăng cường trách nhiệm của cơ sở khám chữa bệnh trong giáo dục sức khỏe và phòng bệnh, bảo đảm sự liên thông giữa các tuyến điều trị và tuyến y tế dự phòng. Chiến lược phát triển ngành Y tế Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 xác định: “Chuyển đổi hệ thống y tế từ mô hình chữa bệnh sang mô hình chăm sóc sức khỏe chủ động và liên tục, lồng ghép phòng bệnh trong các dịch vụ điều trị”.
Tuy nhiên, y học dự phòng hiện nay đang gặp nhiều thách thức: chênh lệch chất lượng y tế giữa các vùng miền, nguồn nhân lực y tế dự phòng còn thiếu và chưa đồng đều, người dân vẫn có tâm lý ưu tiên chữa bệnh hơn phòng bệnh, chưa thực sự thay đổi thói quen… Vì vậy, việc nhận thức tính biện chứng giữa phòng bệnh và chữa bệnh cần được thực hiện tốt hơn nữa.
Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa “Đức” và “Tài” trong y đức cho thấy tầm quan trọng của y đức trong hành nghề y, thể hiện sự phát triển con người toàn diện, góp phần thực hiện nền y tế vì nhân dân. “Đức” và “Tài” có mối ràng buộc chặt chẽ và được nhìn nhận trong sự thống nhất biện chứng, trở thành nguyên lý của y đức.
Trong những năm qua, Bộ Y tế đã ban hành nhiều quy định liên quan đến y đức. Quyết định số 2088/BYT-QĐ ngày 06-11-1996 của Bộ Trưởng Bộ Y tế ban hành “Quy định về y đức”, trong đó nêu rõ 12 tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế, bao gồm: tôn trọng pháp luật; tôn trọng quyền được khám chữa bệnh của nhân dân; có thái độ niềm nở, tận tình; thật thà, đoàn kết, tôn trọng đồng nghiệp… Thông tư 07/2014/TT-BYT ngày 25-02-2014 của Bộ Y tế quy định về quy tắc ứng xử của công chức, viên chức, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế, chỉ ra các nguyên tắc ứng xử của công chức viên, viên chức y tế khi thi hành công vụ, trong ứng xử với đồng nghiệp, với cơ quan, tổ chức, cá nhân, ứng xử trong các cơ sở khám chữa bệnh và ứng xử của lãnh đạo, quản lý cơ sở y tế... Luật Khám bệnh, chữa bệnh số 15/2023/QH15 ngày 09-01-2023 quy định: Người hành nghề phải tôn trọng, bảo vệ tính mạng, sức khỏe và danh dự của người bệnh; không được phân biệt đối xử với người bệnh; bảo đảm bí mật thông tin cá nhân và hồ sơ bệnh án; tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử...
Mặc dù đã có nhiều quy định cụ thể điều chỉnh hành vi ứng xử của người hành nghề y, song, trong kinh tế thị trường hiện nay y đức vẫn bị xuống cấp, từ những sự cố y tế, hành vi thiếu chuẩn mực, vi phạm nghiêm trọng y đức và luật pháp. Điều này gây nên sự suy giảm niềm tin vào y đức trong một bộ phận nhân dân.
3. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về y tế là một hệ thống lý luận toàn diện, kết hợp nhuần nhuyễn tính dân tộc, khoa học và đại chúng. Người đặt vấn đề sức khỏe trong mối quan hệ biện chứng giữa thể chất và tinh thần, cá nhân và cộng đồng, sức khỏe nhân dân và sức mạnh quốc gia. Người nhấn mạnh việc phòng bệnh kết hợp chữa bệnh, xây dựng nền y học vừa hiện đại, vừa truyền thống, coi lương y như từ mẫu là nguyên tắc đạo đức căn bản. Những luận điểm đó không chỉ soi sáng công cuộc kháng chiến, kiến quốc, mà còn có giá trị định hướng lâu dài trong xây dựng nền y tế nhân dân. Trong bối cảnh hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh giúp ngành y phát triển theo hướng toàn diện, nhân văn và bền vững. Dù đã đạt nhiều thành tựu, ngành y tế Việt Nam vẫn đối diện những thách thức về nhân lực, chất lượng, tài chính và đạo đức nghề nghiệp. Do đó, tiếp tục quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí Minh về y tế là con đường tất yếu để xây dựng một nền y tế Việt Nam tiên tiến, vì hạnh phúc và sức khỏe của nhân dân.
_________________
Ngày nhận bài: 13-9-2025; Ngày bình duyệt: 22-9-2025; Ngày duyệt đăng:
Email tác giả: trungchungtran@gmail.com
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.30.
(3), (8), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.241, 241, 241.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.440.
(5) World Health Organistation - WHO, https://www.who.int/.
(6), (7), (13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.113, 487, 548-549.
(8) Xem: Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác bảo vệ sức khỏe, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.
(10), (21), (24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Sđd, tr.154, 154, 154.
(2), (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Sđd, tr.69, 438.
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.34.
(15), (16), (17), (20), (22), (23) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.343, 344, 344, 343, 343, 343.
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.487.
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđd, tr.186.
(25) Xem: Nghị quyết số 20‑NQ/TW ngày 25-10-2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.