(LLCT) - Năm 1949, khi tới thăm Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, trong đó có đồng chí Trần Đăng Ninh đã ghi vào Sổ vàng của nhà trường những lời căn dặn về công tác huấn luyện cán bộ của Đảng. Những lời căn dặn đó có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, định hướng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng.
TS TRẦN THỊ HUYỀN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Mở đầu
Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương được thành lập năm 1949, là trung tâm huấn luyện, đào tạo cán bộ chủ chốt của Đảng, có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong năm 1949, Trường mở liên tiếp hai khóa bồi dưỡng, khóa I từ tháng 2 đến tháng 4-1949 với 40 học viên; khóa II từ tháng 9-1949, với 175 học viên. Nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, trong đó có đồng chí Trần Đăng Ninh đã tới thăm Trường và ghi vào Sổ vàng của nhà trường những lời căn dặn làm kim chỉ nam cho công tác đào tạo cán bộ của Đảng. Trong bối cảnh kháng chiến gian khổ, những lời ghi trong Sổ vàng không chỉ là sự ghi nhận tình hình, mà còn mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, phản ánh quan điểm của Đảng, của cá nhân đồng chí Trần Đăng Ninh về công tác đào tạo cán bộ.
2. Nội dung
Đồng chí Trần Đăng Ninh (tên khai sinh là Nguyễn Tuấn Đáng) sinh năm 1910, tại thôn Quảng Nguyên, xã Quảng Phú, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là xã Ứng Thiên, thành phố Hà Nội).
Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, đông anh chị em, ngay từ thời niên thiếu, Nguyễn Tuấn Đáng ham học hỏi, có tinh thần tự lực vươn lên. Năm 1933, do điều kiện gia đình khó khăn, Nguyễn Tuấn Đáng dừng việc học, ra Hà Nội tìm việc làm, học nghề và trở thành thợ in ở Nhà in Lê Văn Tân. Nguyễn Tuấn Đáng sớm giác ngộ lý tưởng cộng sản, tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước. Tháng 7-1936, Nguyễn Tuấn Đáng được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và lấy tên là Trần Đăng Ninh.
Trong cao trào đấu tranh dân chủ (năm 1936-1939), đồng chí Trần Đăng Ninh được phân công hoạt động bí mật, được chỉ định vào Thành ủy Hà Nội (cuối năm 1939), lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân và các tầng lớp nhân dân ở Hà Nội.
Giữa năm 1940, do bị lộ, đồng chí được Xứ ủy Bắc Kỳ rút khỏi Thành ủy Hà Nội và cử tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ, là Xứ ủy viên. Tháng 9-1940, khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, Xứ ủy Bắc Kỳ cử đồng chí Trần Đăng Ninh lãnh đạo phong trào cách mạng ở Bắc Sơn. Tháng 11-1940, đồng chí tham dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, họp tại Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh), đồng chí đã báo cáo về khởi nghĩa Bắc Sơn, đề xuất chủ trương xây dựng căn cứ địa, duy trì đội du kích và tiếp tục chiến tranh du kích, góp phần hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc.
Tháng 5-1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám diễn ra tại Pác Bó, Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, đồng chí Trần Đăng Ninh được cử tham dự Hội nghị. Trên đường đi, đồng chí bị ốm, quay về hoạt động trong Xứ ủy Bắc Kỳ nhưng vẫn được Hội nghị bầu là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương(1).
Tháng 7-1941, Xứ ủy Bắc Kỳ bầu lại, đồng chí Trần Đăng Ninh được cử làm Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ(2). Đồng chí đã tập trung chỉ đạo phổ biến Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng và đường lối, chính sách của Mặt trận Việt Minh; phổ biến kinh nghiệm chống địch khủng bố; động viên cán bộ, đảng viên tiếp tục xây dựng cơ sở cách mạng, chuẩn bị điều kiện cần thiết cho cuộc đấu tranh giành chính quyền.
Ngày 21-11-1941, đồng chí Trần Đăng Ninh bị thực dân Pháp bắt, giam tại nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội, bị kết án 20 năm khổ sai và 20 năm biệt xứ, tịch thu gia sản. Cuối năm 1942, đồng chí bị đày lên nhà tù Sơn La. Tại đây, đồng chí đã tham gia Chi ủy Chi bộ đặc biệt. Giữa năm 1943, đồng chí Trần Đăng Ninh cùng các đồng chí Nguyễn Văn Trân, Lưu Đức Hiếu và Nguyễn Lương Bằng vượt ngục, bắt liên lạc với tổ chức và được Trung ương chỉ định hoạt động cùng đồng chí Hoàng Quốc Việt trong Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ ở Hưng Yên, Hà Nam, Hà Đông. Tháng 12-1943, đồng chí bị địch bắt lần thứ hai và giam tại nhà tù Hỏa Lò. Lợi dụng Nhật đảo chính Pháp, đêm ngày 9-3-1945, đồng chí Trần Đăng Ninh đã cùng một số đồng chí khác vượt ngục, trở về tiếp tục hoạt động cách mạng.
Đồng chí Trần Đăng Ninh đã tìm bắt liên lạc với tổ chức Đảng và tích cực tham gia các hoạt động chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Tháng 4-1945, đồng chí tham gia Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ và được cử vào Ủy ban Quân sự Bắc Kỳ, sau đó tham gia Bộ Tư lệnh đầu tiên của Việt Nam Giải phóng quân (5-1945). Tháng 8-1945, tại Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng, đồng chí được cử vào Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Trường Chinh phụ trách. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đồng chí được chỉ định vào Ban Chấp hành Tổng bộ Việt Minh, được phân công chỉ đạo cuộc đấu tranh với Quốc dân Đảng. Đồng chí được Đảng, Chính phủ tin tưởng giao đảm nhiệm nhiều cương vị công tác khác nhau: Đặc ủy đoàn của Chính phủ (năm 1947), Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương (năm 1948-1949); Phó Tổng Thanh tra của Chính phủ (năm 1949); Ban Giám sát Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (năm 1949); Đặc phái viên của Chính phủ (năm 1950); Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp (tháng 7-1950). Tháng 2-1951, tại Đại hội II của Đảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng; tiếp tục phụ trách công tác hậu cần quân đội. Tháng 4-1951, đồng chí được Trung ương cử là thành viên lãnh đạo Ban Kinh tế tài chính Trung ương.
Tháng 10-1955, do mắc bệnh hiểm nghèo, đồng chí qua đời khi mới 45 tuổi, để lại nhiều thương tiếc cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.
Ghi nhận công lao to lớn của đồng chí Trần Đăng Ninh đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, Đảng, Nhà nước đã tặng thưởng đồng chí nhiều huân chương cao quý: Huân chương Sao vàng, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhì.
Lời ghi của đồng chí Trần Đăng Ninh trong Sổ vàng Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc Trung ương
Ngày 23-12-1949, đồng chí Trần Đăng Ninh tới thăm Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, thời điểm này đồng chí đang đảm nhiệm cương vị Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương kiêm Phó Tổng Thanh tra Chính phủ. Trên cương vị được giao, với tinh thần xây dựng, tâm huyết vì sự nghiệp phát triển của Đảng, của cách mạng, đồng chí đã ghi trong Sổ vàng những lời tâm huyết:
“Các đc giám đốc rất là cố gắng về phần học của các anh chị em cũng như về phần ăn ở của anh chị em học sinh. Giữa lúc chiến tranh gay gắt, các vật liệu học tập cũng như các thực phẩm, những sự cố gắng đó đã giúp được tương đối đầy đủ.
Các đc học sinh tinh thần học tập thực là cố gắng mài miệt, sống chung vui vẻ.
Nhưng các đc giám đốc cần cố gắng hơn nữa về phần rút kinh nghiệm của các lớp học để góp vào việc xây dựng nhà trường.
Các đc Nam nữ học sinh sau khi mãn khóa phải đem sự đã học tập về làm việc ở địa phương, làm cho công tác mỗi ngày thêm tiến bộ, và đem cái học tập về giúp đỡ các anh chị em ở địa phương mỗi ngày thêm tiến bộ.
Làm được như vậy thì sự học rất hữu ích, hữu ích cho mình và cho Đảng, cho dân tộc”(3).
Lời ghi của đồng chí Trần Đăng Ninh trong Sổ vàng Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương là một văn bản ngắn gọn nhưng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, phản ánh quan điểm của đồng chí về giáo dục cách mạng trong hoàn cảnh đất nước đang trải qua chiến tranh ác liệt. Nội dung lời ghi thể hiện sự quan tâm của đồng chí đối với công tác đào tạo cán bộ của Đảng, đồng thời góp phần định hướng cho hoạt động giáo dục, đào tạo của nhà trường trong thời kỳ kháng chiến, cũng như trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
Khẳng định vai trò của tổ chức trong giáo dục cách mạng: Mở đầu lời ghi, đồng chí viết: “Các đồng chí giám đốc rất là cố gắng về phần học của các anh chị em cũng như về phần ăn ở của anh chị em học sinh...”. Đây là sự ghi nhận chân thành và kịp thời trước những nỗ lực to lớn của ban lãnh đạo nhà trường trong việc bảo đảm điều kiện học tập, sinh hoạt cho học viên giữa lúc chiến tranh ác liệt, vật chất thiếu thốn, thực phẩm và tài liệu khan hiếm. Qua đó, thể hiện vai trò chủ động trong giáo dục cách mạng nói chung, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng nói riêng. Công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng phải được thực hiện có kế hoạch, có tổ chức và đặt trong tầm nhìn chiến lược vì mục tiêu cao cả phục vụ cuộc kháng chiến, kiến quốc mau tới thắng lợi.
Nêu cao tinh thần tự lực và đoàn kết của học viên. “Các đồng chí học sinh tinh thần học tập thực là cố gắng mài miệt, sống chung vui vẻ”. Giáo dục cách mạng không chỉ đào tạo về tri thức mà còn rèn luyện phẩm chất đạo đức, đặc biệt là ý chí tự học, tinh thần vượt khó và sống đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Đây là nền tảng hình thành nên đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” - những người có bản lĩnh, có năng lực và sống có trách nhiệm với tập thể.
Nhấn mạnh tính biện chứng và đổi mới trong công tác đào tạo. “Các đồng chí giám đốc cần cố gắng hơn nữa về phần rút kinh nghiệm của các lớp học để góp vào việc xây dựng nhà trường”. Lời dặn này thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng, quan điểm của đồng chí Trần Đăng Ninh về phương pháp giáo dục cách mạng là phải không ngừng đổi mới, học hỏi và hoàn thiện. Việc rút kinh nghiệm là bước tất yếu để nâng cao chất lượng giảng dạy và quản lý giáo dục, thể hiện tinh thần phê bình và tự phê bình, một nguyên tắc tổ chức sống còn của Đảng trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, đặc biệt trong hoàn cảnh kháng chiến, kiến quốc.
Gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. “Các đồng chí Nam nữ học sinh sau khi mãn khóa phải đem sự đã học tập về làm việc ở địa phương...”. Kiến thức không chỉ để hiểu biết mà còn để phục vụ công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, phục vụ nhân dân, mục tiêu xuyên suốt của Đảng. Lý luận gắn liền với thực tiễn là một trong những phương châm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục được đồng chí Trần Đăng Ninh kế thừa và thể hiện rõ qua lời ghi. Đây là biểu hiện rõ nét nguyên lý: học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, học để phục vụ cách mạng. Việc học không chỉ nhằm tích lũy kiến thức, nâng cao trình độ, năng lực, hoàn thiện cá nhân, mà quan trọng hơn, học để áp dụng hiệu quả vào thực tiễn công tác, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Điều đó thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng ta: lý luận phải gắn với thực tiễn, cán bộ phải sát dân, sát cơ sở.
Khẳng định mục tiêu tối cao phục vụ Đảng và dân tộc. “Làm được như vậy thì sự học rất hữu ích, hữu ích cho mình và cho Đảng, cho dân tộc”. Câu kết của lời ghi thể hiện quan điểm, giá trị cốt lõi lấy lợi ích của Đảng, của dân tộc làm mục tiêu tối thượng cho mọi hoạt động giáo dục, đào tạo, đồng thời mang giá trị định hướng sâu sắc cho hoạt động giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng hiện nay. Câu kết của lời ghi cũng chính là sự khẳng định giá trị chân chính của tri thức. Tri thức tiếp thu được qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng chỉ thực sự có ý nghĩa khi được đặt vào phục vụ lý tưởng chung, khi gắn liền với trách nhiệm và hành động cụ thể vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Điều đó đặt ra yêu cầu mỗi người học cần xác định rõ mục đích học tập không chỉ vì sự tiến bộ cá nhân, mà còn là nghĩa vụ và sứ mệnh cách mạng. Học không chỉ vì bản thân, mà còn vì Đảng, vì dân tộc - đây là nền tảng thực tiễn và đạo đức cho mọi hoạt động giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng.
Để phát huy giá trị những lời ghi trong Sổ vàng Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, trong đó có lời ghi của đồng chí Trần Đăng Ninh, các cơ quan, đơn vị có chức năng, thẩm quyền cần xác định, làm rõ và ghi nhận Sổ vàng là bảo vật quốc gia. Sau khi đã công nhận, cần đưa những nội dung trong Sổ vàng vào giảng dạy tại các lớp lý luận chính trị, nhằm giáo dục sâu sắc tinh thần học tập, rèn luyện vì dân, vì Đảng. Đồng thời, tổ chức tọa đàm chuyên đề tại các trường chính trị địa phương nhằm thảo luận, chia sẻ và vận dụng các giá trị lý luận vào thực tiễn công tác cán bộ. Mặt khác, để nhân rộng và lan tỏa các giá trị của lời ghi có thể nghiên cứu xây dựng mô hình học tập thực hành lý luận chính trị, theo hướng lấy địa phương làm trung tâm ứng dụng, để tạo cầu nối giữa đào tạo và thực tiễn.
3. Kết luận
Những lời ghi trong Sổ vàng Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương của đồng chí Trần Đăng Ninh là sự thể hiện quan điểm giáo dục, sự kế thừa, tiếp nối tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, kinh nghiệm thực tiễn và định hướng phát triển lâu dài của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Lời ghi trong Sổ vàng của đồng chí có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, nội dung có tính định hướng cao, có thể áp dụng trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục lý luận chính trị và phát triển đội ngũ cán bộ kế cận.
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới, việc học nói chung, học lý luận chính trị nói riêng càng trở nên cần thiết, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (tiền thân là Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương), trung tâm đào tạo cán bộ trung, cao cấp của Đảng và Nhà nước tiếp tục không ngừng nâng cao chất lượng công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng; tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, đẩy mạnh đổi mới toàn diện, đồng bộ, xây dựng Học viện vững mạnh, giàu bản sắc, hiện đại, hội nhập trong kỷ nguyên phát triển mới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
_________________
Ngày nhận bài: 03-7-2025; Ngày bình duyệt: 21-7-2025; Ngày duyệt đăng: 9-8-2025.
Email tác giả: tranhuyenvhcm@gmail.com
(1) Xem: “Tiểu sử đồng chí Trần Đăng Ninh”, Báo Nhân dân, ngày 8-10-1955; Theo Hồ sơ cán bộ do Trung ương quản lý, lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng và Lý lịch tự khai của đồng chí Trần Đăng Ninh do gia đình cung cấp; Theo cuốn Trần Đăng Ninh - Con người và lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.17, đồng chí Trần Đăng Ninh được cử vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời từ Hội nghị Trung ương (tháng 11-1940), Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5-1941), đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương; Xem: Xây dựng cơ quan lãnh đạo cấp trung ương, xứ ủy của Đảng thời kỳ 1930-1945, Nxb Chínhh trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.183.
(2) Theo Hồ sơ cán bộ do Trung ương quản lý, lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng và Lý lịch cán bộ của đồng chí Trần Đăng Ninh do gia đình cung cấp, khẳng định đồng chí là Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, tháng 7 - 1941.
(3) Trích từ Sổ vàng truyền thống của Trường Nguyễn Ái Quốc, tr.19, tài liệu lưu trữ tại Viện Bảo tàng cách mạng Việt Nam thuộc Bảo tàng quốc gia Việt Nam.