Nghiên cứu lý luận

Quan điểm về phát triển nguồn nhân lực trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV

16/12/2025 14:21

DOI: https://doi.org/10.70786/PTOJ.7775
(LLCT) - Trước yêu cầu thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố động lực quyết định đòi hỏi Đảng phải có những chính sách về phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh mới. Bài viết phân tích quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa; đánh giá ưu điểm, hạn chế và đề xuất giải pháp để thực sự đi vào thực tiễn.

ThS TRẦN MINH NHẬT
H
ọc viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm Đại học Quốc gia Hà Nội cơ sở Hoà Lạc_Ảnh: TTXVN

1. Mở đầu

Sau 40 năm đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: nền kinh tế tăng trưởng liên tục, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu ấy, Việt Nam vẫn đang đối mặt với yêu cầu cấp bách phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, bắt kịp sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Trong đó, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, ngày càng trở thành yếu tố quyết định của năng lực cạnh tranh quốc gia. Ở nhiều quốc gia, giá trị tăng trưởng bền vững trong thời kỳ công nghiệp hiện đại không đến từ tài nguyên thiên nhiên hay vốn đầu tư, mà đến từ “vốn con người” - tức là chất lượng, trình độ, năng lực sáng tạo và đạo đức của người lao động.

Trải qua các kỳ Đại hội của Đảng, đặc biệt từ Đại hội VII (năm 1991) đến Đại hội XIII (năm 2021), phát triển nguồn nhân lực luôn được xác định là một trong ba đột phá chiến lược. Đến Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV, quan điểm này được tiếp tục kế thừa, phát triển với nhiều nội dung mới, phản ánh nhận thức sâu sắc hơn của Đảng trước yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới. Dự thảo nêu rõ: “Tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo chuẩn quốc tế đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp, công nghệ chiến lược. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để phát hiện, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài; chú trọng thu hút các nhà khoa học giỏi, chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước”(1). Điều này khẳng định vai trò đặc biệt của con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời thể hiện tư duy phát triển, “lấy con người làm trung tâm” của toàn bộ tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

2. Nội dung

2.1 Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng

Bi cảnh chỉnh trị - xã hội và vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng

Thế giới đang chứng kiến những biến động lớn đó là cạnh tranh địa chiến lược gia tăng, công nghệ số, AI, trí tuệ nhân tạo phát triển nhanh. Những thay đổi này đòi hỏi các quốc gia phải có năng lực thích ứng nhanh, sáng tạo và đổi mới liên tục. Việt Nam đã qua mô hình tuyến tính tăng trưởng bằng lao động giá rẻ, sử dụng nhiều nguyên liệu đầu vào, mở cửa xuất khẩu, đang bước vào giai đoạn chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tăng năng suất, phát triển công nghệ cao, kinh tế số, kinh tế tri thức. Dự báo trong 5 đến 10 năm tới, nếu không có nguồn nhân lực chất lượng cao, Việt Nam sẽ dễ bị bỏ lại phía sau trong chuỗi giá trị toàn cầu. Chính trong bối cảnh đó, Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV công bố ngày 15-10-2025 tập trung nhiều vào “nhân lực” - một đột phá chiến lược bên cạnh thể chế và hạ tầng để bảo đảm đất nước phát triển nhanh, bền vững. Ban Chấp hành Trung ương đã đặt nhiệm vụ trọng tâm là hoàn thiện, cô đọng các nội dung liên quan “nhân lực” để làm rõ tầm nhìn, định hướng triển khai và thể chế hóa trên từng lĩnh vực, từng cấp.

Trong Dự thảo Báo cáo Chính trị, phần “nhân lực” được đặt trong hệ thống các quan điểm, định hướng phát triển cấp quốc gia, là một trụ cột chiến lược, có vị trí ngang hàng với hạ tầng, thể chế. Cách tiếp cận của Đảng trong dự thảo văn kiện là toàn diện, liên ngành và lồng ghép: nhân lực không chỉ thuộc trách nhiệm của ngành giáo dục - đào tạo, mà là vấn đề của mọi ngành, mọi cấp, mọi vùng, và phải kết nối chặt chẽ với kinh tế, khoa học - công nghệ, văn hoá, y tế, môi trường, quốc phòng, an ninh. Dự thảo cũng nhấn mạnh rằng xây dựng nhân lực phải được tổ chức theo lộ trình, có chỉ tiêu cụ thể, có kiểm tra, giám sát và đánh giá kết quả (các mục tiêu định lượng, KPI). Như vậy, quan điểm của Đảng về nhân lực trong văn kiện không đơn lẻ mà có tính hệ thống là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển quốc gia.

Dự thảo Văn kiện xác định lấy con người là trung tâm, là chủ thể và mục tiêu của phát triển

Đây là quan điểm nền tảng nhất quán trong hệ thống tư duy phát triển của Đảng, được khẳng định mạnh mẽ hơn trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV. Vấn đề “con người là trung tâm” thể hiện tư tưởng rằng mục tiêu cuối cùng của mọi đường lối, chính sách là phục vụ, nâng cao đời sống, năng lực, phẩm chất con người. Không phải phát triển vì tăng GDP, vì hạ tầng, vì xuất khẩu, mà vì con người - đất nước tiến bộ, người dân được “giàu về vật chất, phong phú về tinh thần”. Trong Dự thảo Văn kiện, khái niệm này được nhấn mạnh: phát triển con người Việt Nam toàn diện và xây dựng nhân lực chất lượng cao(2). Việc đặt con người làm trung tâm đòi hỏi các chính sách phải hướng đến: bình đẳng tiếp cận cơ hội phát triển, cải thiện hạ tầng “mềm” (giáo dục, y tế, văn hóa) để mọi người có điều kiện phát triển, giảm bất công và vùng chênh lệch.

Cùng với việc xác định “con người là trung tâm”, Dự thảo Văn kiện cho rằng “con người là chủ thể sáng tạo”. Khác với cách hiểu cũ, người lao động chỉ làm công việc được giao, trong quan điểm mới, Đảng ta cho rằng, con người phải là chủ thể sáng tạo, chủ thể đóng góp ý chí, sáng kiến, đổi mới. Nhân lực không chỉ “thực hiện” mà “sáng tạo”, đưa sáng kiến, cải tiến, đổi mới phương thức, quản trị. Văn kiện xác định: “khuyến khích tự do sáng tạo, bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung” là chính sách quan trọng để giữ vững động lực đổi mới. Chủ thể sáng tạo này không chỉ là đội ngũ trí thức, mà là mọi người lao động trong các lĩnh vực kinh tế, ai có sáng kiến đều được khuyến khích và sử dụng hiệu quả.

Dự thảo Văn kiện khẳng định “con người là mục tiêu của phát triển”. Nếu như trong quan điểm truyền thống, con người thường là “đối tượng để phục vụ phát triển” - tức là chính sách phát triển đầu tư vào hạ tầng, công nghiệp, rồi con người hưởng lợi gián tiếp. Nhưng đến Đại hội XIV, Đảng ta đã đặt con người là mục tiêu cưối cùng, mọi phát triển đều phải quy về việc nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển trí tuệ, phẩm chất, tinh thần nhân dân. Điều này có nghĩa là khi hoạch định bất kỳ chính sách nào, từ đầu tư cơ sở hạ tầng đến quy hoạch đô thị, từ cải cách thể chế đến chương trình nông thôn mớì đều phải đặt tiêu chí tác động tới con người lên hàng đầu: có tạo việc làm, có nâng cao trình độ, có bảo đảm phúc lợi, có khuyến khích sáng tạo không. Quan điểm này phản ánh tinh thần nhân văn và chính trị của Đảng: phát triển vì con người, do con người và hướng tới con người.

Dự thảo xác định nhân lực chất lượng cao là đột phá chiến lược

Một trong những điểm mới nổi bật của Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV là việc không chỉ giữ nguyên mà phát triển nội hàm của “nhân lực chất lượng cao” và đặt nó là một trong ba đột phá chiến lược quốc gia (cùng với thể chế và hạ tầng). Trong dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XIV, nguồn nhân lực không chỉ được xem là yếu tố quan trọng mà được nâng hẳn lên thành đột phá chiến lược, nghĩa là, đi từ “cần” thành “phải đột phá”, vì nó là một trong những lực lượng quyết định để đất nước bước vào “kỷ nguyên vươn mình”. Việc xác định “nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao” như một đột phá chiến lược thể hiện việc chuyển tư duy: từ phát triển nhân lực theo số lượng sang theo chất lượng và hiệu quả, từ đào tạo truyền thống sang đào tạo đổi mới, từ nhân lực nội địa đơn thuần sang nhân lực toàn cầu.

So với các văn kiện trước, Dự thảo lần này đã mở rộng và cụ thể hóa nội hàm: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chiến lược (những người có tầm nhìn, năng lực điều hành trong môi trường phức tạp, có khả năng “quản trị quốc gia trong thời đại mới”; trí thức, nhà khoa học, chuyên gia kỹ thuật cao); người nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, dẫn dắt ngành; công nhân kỹ thuật cao (lao động trong các ngành công nghiệp công nghệ cao, tự động hoá, robot, năng lượng mới, kỹ thuật số); nhân lực đổi mới sáng tạo (khởi nghiệp, sáng chế, phát triển startup, ứng dụng công nghệ mới vào thực tiễn; nhân lực vùng khó, nông thôn, dân tộc thiểu số)(3). Việc cụ thể hóa này giúp tránh hiểu sai “nhân lực chất lượng cao” thành học cao, bằng cấp, mà nhấn mạnh vào năng lực sáng tạo, thích ứng với thực tiễn một cách thực chất.

Dự thảo cũng đã làm rõ khái niệm “nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao” đây là điểm rất đáng chú ý, vì không chỉ nói tới “số lượng nhân lực”, mà “nhân lực tốt, có trình độ, năng lực, sáng tạo”. Quan điểm nguồn nhân lực “chất lượng cao” còn có hàm ý là nhân lực có đạo đức, lý tưởng cách mạng, kỷ luật, chuyên môn/vị trí phù họp, có kỹ năng, có năng lực đổi mới - không phải chỉ là trình độ bằng cấp. Còn “trình độ cao” thể hiện qua trình độ học vấn, đào tạo chuyên sâu, đặc biệt đối với các chuyên gia, nhà quản lý. Do đó, “nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao” cần được hiểu theo nghĩa đa chiều bảo đảm về số lượng phù họp, về chất lượng chuyên môn “kỹ năng, về phẩm chất, về đổi mới sáng tạo, và về khả năng thích ứng với yêu cầu phát triển mới”.

Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Dự thảo Văn kiện xác định cần “tập trung chuyển đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài” và “chuyển đổi cơ cấu” hợp lý, “số lượng bảo đảm, cấu trúc phù hợp, trình độ ngày càng cao, kỹ năng chuyên sâu, nghề chất lượng cao”. Thực hiện thu hút và trọng dụng nhân tài, tạo môi trường hấp dẫn (về chế độ, vị trí, cơ hội, đãi ngộ), khuyến khích người tài đến, ở lại, cống hiến; đồng thời loại bỏ các rào cản, tiêu cực, bổ nhiệm yếu kém để bảo đảm “người tài được dùng, việc tốt được làm”.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân lực có năng lực sáng tạo, dám chịu trách nhiệm; có tư duy đổi mới, sáng tạo, chủ động, ý thức trách nhiệm cao. Tăng cường đào tạo, học tập suốt đời và toàn diện dựa trên việc chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài; xây dựng mô hình xã hội học tập, học tập suốt đời”; hệ thống giáo dục - đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, đào tạo lại lao động, cần gắn chặt với nhu cầu thực tiễn, kỹ năng nghề, kỹ năng số, khả năng sáng tạo.

Văn kiện nhấn mạnh: “động lực mới” gồm khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực chất lượng cao phải đủ năng lực để vận hành, sáng tạo, khai thác công nghệ mới, tham gia mạng lưới quốc tế, đóng góp vào chuỗi giá trị toàn cầu. Hội nhập quốc tế sâu rộng đặt ra tiêu chuẩn cao hơn cho nguồn nhân lực như về ngôn ngữ, kỹ năng quốc tế, tinh thần họp tác, khởi nghiệp, sáng tạo.

Dự thảo xác định, cần gắn phát triển nhân lực với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và khoa học - công nghệ

Một yếu tố mới rất quan trọng trong dự thảo Văn kiện là kết hợp mạnh mẽ giữa phát triển nhân lực với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, khoa học công nghệ - coi đây là mô hình đồng hành, song hành. Phát triển nguồn nhân lực có tư duy đổi mới, sáng tạo là trọng tâm để thực hiện chuyển đổi số. Dự thảo đề xuất: “phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia; gắn kết chặt giữa đào tạo, nghiên cứu và sản xuất; phát huy vai trò doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực”(4). Ở đây, nhân lực không chỉ là người sử dụng công nghệ, mà là người sáng tạo công nghệ; là chủ thể sáng chế, khởi nghiệp, mô hình mới, giải pháp mới, tức là trung tâm của hệ đổi mới quốc gia.

Để chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo, Dự thảo Văn kiện cũng nhấn mạnh đến vấn đề chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo và quản trị nhân lực. Theo đó, cần đẩy mạnh chuyển đổi số trong giáo dục và quản trị, từ việc quản lý học viên, quản lý đào tạo, quản lý dữ liệu về nhân lực, nền tảng học tập trực tuyến, quản lý hiệu suất, đánh giá năng lực. Dự thảo Văn kiện chỉ ra sự phát triển nhân lực theo hướng này sẽ tiết kiệm chi phí, tăng tiếp cận; tạo phương tiện linh hoạt để đào tạo suốt đời, học không biên giới; tạo hệ thống dữ liệu nhân lực quốc gia để hoạch định, điều chỉnh chính sách hiệu quả hơn.

Đặc biệt, trong bối cảnh AI phát triển, con người phải có năng lực “số hóa bản thân”, bồi dưỡng kỹ năng số, khai thác công nghệ làm công cụ hỗ trợ cho sáng tạo. Một điểm rất rõ trong Dự thảo là kết nối giữa ba lĩnh vực: đào tạo - nghiên cứu - sản xuất. Không để “học vẹt”, “trường cách xa thực tế”, mà phải gắn kết chặt giữa trường học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp, để nhân lực ngay từ khi đào tạo đã tiếp xúc thực tế, chuyển giao công nghệ, làm dự án mẫu,... Điều này đòi hỏi có cơ chế hỗ trợ, tài trợ cho nghiên cứu ứng dụng, quỹ đổi mới sáng tạo trong trường, các dự án hợp tác thực tế, hỗ trợ startup khoa học công nghệ.

Văn kiện không chỉ nhấn mạnh nhân lực ứng dụng, mà cả nhân lực nghiên cứu cơ bản để mở ra các kiến thức mới, nền tảng công nghệ mới. Phát triển nhân lực nghiên cứu để không phụ thuộc vào ngoại nhập công nghệ, thay vào đó có thể chủ động nghiên cứu, cải tiến, sáng tạo trong các lĩnh vực then chốt.

Dự thảo xác định phát triển nhân lực toàn diện cần phải bảo đảm hài hòa, toàn diện

Một điểm quan trọng, kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, được tiếp tục củng cố, phát triển trong Dự thảo Văn kiện là nhân lực phải phát triển toàn diện đây không chỉ về chuyên môn, kỹ năng, mà về phẩm chất, đạo đức, thể chất, tinh thần văn hóa. Văn kiện khẳng định: phát triển nhân lực phải “vừa hồng vừa chuyên”, đồng thời nâng cao lý tưởng cách mạng, tinh thần yêu nước, ý thức công dân, đạo đức nghề nghiệp; chống biểu hiện thực dụng, thiếu trách nhiệm, tham nhũng, chạy chức chạy quyền; giáo dục phải gắn liền với rèn luyện đạo đức, nhân cách chứ không chỉ truyền kiến thức.

Nguồn nhân lực phát triển phải là những người có trí tuệ, năng lực chuyên môn, sáng tạo. Nhân lực phải có trình độ chuyên môn cao, kiến thức cập nhật, tư duy phản biện và năng lực đổi mới sáng kiến. Do đó, chương trình đào tạo phải hướng tới phát triển năng lực, không chỉ kiến thức lý thuyết; khuyến khích học tập suốt đời, tự học, cập nhật tri thức mới, tiếp cận công nghệ mới. Nhân lực muốn cống hiến lâu dài thì phải có thể chất tốt, sức khỏe, do đó đầu tư y tế, chăm sóc sức khỏe người lao động là một phần không thể thiếu trong phát triển nhân lực. Môi trường làm việc, điều kiện lao động an toàn, chế độ bảo vệ sức khỏe là điều kiện cần để phát huy tiềm lực con người. Dự thảo Văn kiện nhấn mạnh yếu tố văn hóa, thẩm mỹ, giá trị tinh thần. Nhân lực cần có tinh thần văn, biết trân trọng bản sắc dân tộc, biết tiếp thu cái mới nhưng giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam. Do vậy, cần phải không ngừng cải thiện đời sống văn hóa, phát triển văn hóa làm việc, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa công sở. Khuyến khích nghệ thuật, thể thao, hoạt động tinh thần để đời sống tinh thần của nhân dân không bị tụt hậu so với phát triển vật chất. Quan điểm này trong Dự thảo Văn kiện góp phàn khắc phục tình trạng “kỹ thuật cao nhưng nhân cách thấp”, tức là nhân lực có kỹ năng cao nhưng thiếu trách nhiệm, đạo đức kém.

Dự thảo xác định phát triển nhân lực phải đảo đảm công bằng vùng miền, phân bổ nhân lực hợp lý

Một trong những thách thức lớn của phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam là sự chênh lệch vùng miền, chất lượng nhân lực giữa đô thị và nông thôn, vùng đồng bằng và vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Dự thảo Văn kiện đưa ra các quan điểm cụ thể để xử lý vấn đề này. Theo đó, sẽ ưu tiên vùng khó, vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số; ưu tiên đầu tư phát triển nguồn nhân lực ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển và bảo đảm tính bao trùm của tăng trưởng(5). Điều này bao gồm, hỗ trợ học bổng ưu tiên, điều động cán bộ trẻ, chính sách đặc biệt lương thưởng, hỗ trợ cơ sở vật chất giáo dục - đào tạo khu vực khó khăn.

Thực hiện phân bổ nhân lực theo ngành nghề và địa bàn. Dự thảo Văn kiện khẳng định, phải có quy hoạch, dự báo nhu cầu nhân lực ngành nghề theo vùng để tránh tình trạng thiếu nhân lực mũi nhọn nhưng thừa nhân lực giản đơn”. Phân bổ nhân lực theo ngành: ưu tiên ngành công nghệ cao, năng lượng xanh, kỹ thuật số cho các vùng trọng điểm phát triển; đồng thời bảo đảm nhân lực cơ bản cho các vùng nông nghiệp, dịch vụ. Văn kiện thể hiện quan điểm, không để khu vực công “ôm” hết nhân lực chất lượng cao, mà cần khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đào tạo và sử dụng nhân lực; tạo sân chơi công bằng về đãi ngộ, sử dụng tài năng giữa hai khu vực.

Về cơ chế trọng dụng, đãi ngộ nhân tài

Một trong những điểm quan trọng để biến quan điểm thành thực tiễn là cơ chế trọng dụng và đãi ngộ, nếu không, nhân tài sẽ rời đi hoặc không dám đóng góp. Để phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng nhân tài cần phải xây dựng cơ chế minh bạch, khách quan trong phát hiện nhân tài, không thiên vị. Tuyển chọn phải dựa vào năng lực, kết quả thực tế công việc, phẩm chất, tinh thần trách nhiệm. Bồi dưỡng nhân tài từ sớm, tạo lộ trình phát triển rõ ràng, có kế hoạch phát triển cá nhân.

Cần phải có cơ chế đãi ngộ vượt trội, trong dự thảo, Văn kiện nêu rõ yêu cầu cần có các cơ chế đãi ngộ vượt trội để giữ chân nhân tài. Đãi ngộ không chỉ là lương mà gồm cả thưởng, hợp đồng đặc biệt, quyền lựa chọn dự án, quyền tự chủ, điều kiện làm việc, hỗ trợ khoa học - nghiên cứu, bảo hộ sáng chế, chia sẻ lợi ích từ sản phẩm sáng tạo. Có thể có “quỹ nhân tài” cấp quốc gia để đầu tư và hỗ trợ các dự án sáng tạo cá nhân.

Cần xây dựng, tạo lập môi trường làm việc mở, linh hoạt; cho phép lao động chất lượng cao tham gia hợp tác quốc tế, làm việc theo dự án, làm việc từ xa, tạo môi trường linh hoạt hấp dẫn. Bảo vệ quyền lợi người dám thử, dám thất bại, không để rủi ro ngăn cản sáng tạo. Xây dựng văn hóa tôn vinh đóng góp, chấp nhận sai sót nếu học được từ thất bại.

Liên kết giáo dục - đào tạo - sử dụng nhân lực

Một điểm mấu chốt để bảo đảm hiệu quả phát triển nguồn nhân lực là phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các giai đoạn đào tạo, phát triển và sử dụng nhân lực. Dự thảo văn kiện nhấn mạnh, cần phải đổi mới phương thức giáo dục - đào tạo. Chuyển từ “giảng dạy truyền thống” sang “đào tạo hướng năng lực, hướng ứng dụng”: học lý thuyết gắn với thực hành, dự án thực tế, thí nghiệm, thực tập doanh nghiệp. Cập nhật liên tục chương trình đào tạo để bắt kịp công nghệ mới, xu hướng toàn cầu. Nhấn mạnh kỹ năng số, tư duy phản biện, sáng tạo, kỹ năng mềm, hợp tác đa ngành. Khuyến khích mô hình giáo dục trực tuyến, kết hợp học online - offline, học suốt đời.

Đẩy mạnh hợp tác giữa nhà trường - doanh nghiệp - cơ quan quản lý. Doanh nghiệp tham gia thiết kế chương trình đào tạo, đặt hàng đào tạo, tiếp nhận thực tập, tài trợ học bổng, hỗ trợ thiết bị thực hành. Trường và doanh nghiệp liên kết trong dự án ứng dụng để sinh viên thực hành công nghệ thực tế, gắn đào tạo với sản xuất. Nhà nước hỗ trợ cơ chế ưu đãi doanh nghiệp đầu tư vào đào tạo, hỗ trợ liên kết trường - doanh nghiệp. Thực hiện đào tạo lại, nâng cao năng lực cho lực lượng lao động hiện có. Trong quá trình chuyển đổi công nghệ, nhiều lao động hiện có sẽ bị “lỗi thời” nếu không được đào tạo lại. Do đó, cần chương trình đào tạo lại, nâng cấp kỹ năng, cập nhật kiến thức mới. Khuyến khích học tập suốt đời, hỗ trợ tài chính, hệ thống học trực tuyến, học nghề cho người đi làm. Hợp tác với các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp công nghệ để cung cấp khóa học chuyên sâu, cập nhật mới.

Quy hoạch nhân lực theo ngành, vùng và chiến lược quốc gia. Dự thảo nhấn mạnh cần có quy hoạch nhân lực theo ngành, vùng và chiến lược quốc gia, dự báo nhu cầu nhân lực từng lĩnh vực, từng vùng, từng giai đoạn. Tránh tình trạng dôi dư nhân lực ở ngành lạc hậu và thiếu nhân lực ở ngành mới, công nghệ cao. Quy hoạch này phải liên tục cập nhật dự báo theo biến động thị trường lao động, công nghệ, hội nhập quốc tế.

2.2. Giải pháp và kiến nghị cụ th hóa quan điểm phát triển nguồn nhân lực trong Dự thảo Văn kiện Đi hội XIV của Đảng

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV xác định “hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trong đó có thể chế phát triển nhân lực” là đột phá chiến lược số một. Hệ thống pháp luật hiện hành vẫn tồn tại nhiều bất cập: Luật Giáo dục, Bộ luật Lao động, Luật khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, Luật bảo vệ dữ liệu cá nhân... còn thiếu sự liên thông, gây cản trở quá trình đào tạo - sử dụng nhân lực. Theo đó, cần tập trung vào những vấn đề: Xây dựng nghị định khung về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, quy định thống nhất khái niệm, tiêu chuẩn, cơ chế quản lý và đánh giá nhân lực; sửa đổi đồng bộ các luật có liên quan (giáo dục, khoa học - công nghệ, doanh nghiệp, lao động...) theo hướng mở rộng tự chủ, gắn đào tạo với nhu cầu thực tế; thể chế hóa rõ trách nhiệm Nhà nước - doanh nghiệp - xã hội trong phát triển nhân lực.

Thứ hai, xây dựng Chiến lược quốc gia về nhân lực chất lượng cao giai đoạn 2026-2035. Trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, Đảng khẳng định nhân lực chất lượng cao là trọng tâm của chiến lược phát triển đất nước nhanh, bền vững. Để cụ thể hóa, cần có một chiến lược quốc gia, với mục tiêu, chỉ tiêu và giải pháp định lượng rõ ràng, cần xác định rõ cấu trúc nhân lực chất lượng cao gồm: (1) cán bộ lãnh đạo, quản lý; (2) trí thức, chuyên gia; (3) công nhân kỹ thuật cao; (4) nhân lực đổi mới sáng tạo; (5) nhân lực nông nghiệp công nghệ cao. Xây dựng bản đồ nhu cầu nhân lực quốc gia, dự báo cung - cầu theo ngành, vùng và lĩnh vực đến năm 2035; đặt chỉ tiêu định lượng: đến năm 2030, 50% lao động qua đào tạo có chứng chỉ kỹ năng nghề; 30% lao động trong các ngành công nghệ cao. Thiết lập cơ quan điều phối quốc gia về phát triển nhân lực chất lượng cao, hoạt động như một đầu mối kết nối giữa Chính phủ, địa phương, viện - trường và doanh nghiệp.

Thứ ba, cải cách căn bản giáo dục và giáo dục nghề nghiệp theo chuẩn năng lực. Đảng ta nhất quán quan điểm coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng để phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục còn chưa đồng đều, chưa gắn chặt với yêu cầu thực tế. Để thực hiện phát triển nguồn nhân lực, trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi phải chuyển từ giáo dục hàn lâm sang giáo dục năng lực (chương trình học dựa trên chuẩn đầu ra, kết hợp lý thuyết với thực hành, kỹ năng tư duy phản biện, sáng tạo); đổi mới giáo dục nghề nghiệp (áp dụng mô hình đào tạo kép thông qua kết hợp giữa trường nghề và doanh nghiệp; chuẩn hóa hệ thống đánh giá tay nghề theo tiêu chuẩn ASEAN và quốc tế); tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho trường nghề, trung tâm kỹ thuật số, trung tâm AI - dữ liệu lớn; đẩy mạnh đào tạo trực tuyến, học tập suốt đời; phổ cập kỹ năng số cơ bản cho toàn dân.

Thử tư, đẩy mạnh liên kết chặt chẽ giữa nhà nước - Nhà trường và doanh nghiệp. Dự thảo Văn kiện khẳng định: “Đổi mới nội dung, phương pháp, mô hình giáo dục - đào tạo; gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo, nghiên cứu và sản xuất”. Đây là điều kiện để bảo đảm đầu ra nhân lực phù hợp với nhu cầu xã hội. Để thúc đẩy sự liên kết này cần thành lập hội đồng kỹ năng ngành, gồm đại diện bộ quản lý, hiệp hội doanh nghiệp và trường đại học, có nhiệm vụ xác định tiêu chuẩn kỹ năng, đặt hàng đào tạo; xây dựng cơ chế đặt hàng đào tạo từ doanh nghiệp (doanh nghiệp tham gia xây dựng chương trình học, hỗ trợ học bổng, thực tập, tuyển dụng sau tốt nghiệp: thành lập Quỹ hợp tác đào tạo - nghiên cứu để tài trợ đề tài, dự án sinh viên - doanh nghiệp, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo; có cơ chế thuế ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư vào đào tạo nhân lực.

Thứ năm, phát triển mạnh hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số gắn với nhân lực. Đảng ta khẳng định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính của tăng trưởng. Nhân lực là yếu tố quyết định để biến tri thức thành giá trị. Để thực hiện mục tiêu này cần phải hình thành mạng lưới trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, kết nối các viện, trường, doanh nghiệp, khu công nghệ cao; cung cấp nền tảng nghiên cứu - đào tạo - thử nghiệm; xây dựng Chương trình “Kỹ sư số quốc gia” nhằm đào tạo 50.000 kỹ sư công nghệ thông tin, AI, dữ liệu lớn, an ninh mạng mỗi năm; khuyến khích doanh nghiệp phát triển “văn hóa học tập số” thông qua dùng nền tảng e-leaming, AI coach, đào tạo nội bộ; hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo trong trường đại học, khu công nghiệp, với quỹ đầu tư mạo hiểm nhà nước - tư nhân đồng tài trợ.

Thứ sáu, có chính sách phát hiện, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài. Đảng nêu rõ: “Hoàn thiện cơ chế phát hiện, tuyển chọn, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài; khuyến khích tự do sáng tạo, bảo vệ người dám nghĩ, dám làm”. Đây là quan điểm mang tính đột phá. Để thực hiện chính sách đột phá này đòi hỏi sửa đổi cơ chế tuyển dụng công chức, viên chức (từ thi tuyển truyền thống sang đánh giá năng lực, kết quả công việc, phỏng vấn tình huống); xây dựng cơ chế trả lương - thưởng đặc thù (trả lương theo vị trí, năng lực, hiệu quả; cơ chế khoán theo sản phẩm và thưởng sáng kiến); xây dựng “Hồ sơ năng lực quốc gia” để công dân có thể tích hợp bằng cấp, chứng chỉ, thành tích trong một hệ thống dữ liệu mở, phục vụ tuyển dụng.

Thứ bảy, thành lập và vận hành Quỹ Phát triển nhân lực quốc gia. Hiện nay, nguồn tài chính dành cho phát triển nhân lực còn phân tán, thiếu ổn định. Một quỹ quốc gia sẽ tập trung nguồn lực và bảo đảm tính dài hạn của chính sách. Do đó, cần nghiên cứu thành lập Quỹ Phát triển nhân lực quốc gia, vốn từ ngân sách nhà nước, trái phiếu giáo dục, đóng góp xã hội và tài trợ quốc tế. Quỹ sẽ hỗ trợ học bổng, tín dụng đào tạo, khởi nghiệp sáng tạo, tái đào tạo cho người lao động bị thay thế bởi công nghệ; thực hiện cơ chế “học trước - trả sau” (người học hoàn trả học phí bằng phần trăm thu nhập sau khi đi làm).

3. Kết luận

Phát triển nguồn nhân lực luôn là một trong những vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định đến sự phát triển nhanh và bền vững của mọi quốc gia. Đối với Việt Nam, trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số và yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực - đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao - không chỉ là nhu cầu khách quan mà còn là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng tiếp tục khẳng định và phát triển tư duy chiến lược đó trên một tầm cao mới. Trong hệ thống ba đột phá chiến lược, phát triển nguồn nhân lực được đặt ở vị trí trung tâm, thể hiện nhận thức sâu sắc của Đảng về vaỉ trò “con người là trung tâm, là chủ thể, là nguồn lực quan trọng nhất và là mục tiêu của phát triển”. Đây là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và các kỳ Đại hội trước, đồng thời là bước phát triển mới, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại kinh tế tri thức, kinh tế số và xã hội học tập.

_________________

Ngày nhận bài: 10-12-2025; Ngày bình duyệt: 15-12-2025; Ngày duyệt đăng: 20-12-2025.

(1) ĐCSVN: Dự thào các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2025, tr.30.

(2), (3), (4), (5) ĐCSVN: Dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-du-thao-bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh- trung-uong-dang-khoa-xiii-tai-dai-hoi-xiv-cua-dang-119251015171703632.htm7.com.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Quan điểm về phát triển nguồn nhân lực trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV
    POWERED BY