Thực tiễn

Sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước - bản lĩnh chính trị dám đổi mới của Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới

14/10/2025 10:25

(LLCT) - Đảng Cộng sản Việt Nam với bản lĩnh kiên cường đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua bao khó khăn, thử thách để giành được những thành tựu to lớn. Trong bối cảnh mới, trước yêu cầu phát triển đất nước, Đảng ta tiếp tục thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, dám chịu trách nhiệm trong sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước. Đây là quyết định có tính bước ngoặt lịch sử để đưa nước ta tiếp tục phát triển trong kỷ nguyên mới.

TS LÊ VĂN PHỤC
ThS PHAN THỊ TUYẾT LAN

Học viện Chính trị khu vực III

sap xep tinh gon bo may thay doi ve chat trong hoat dong cua he thong chinh tri hinh anh 1
Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 18 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII_Ảnh: VOV

1. Mở đầu

Trong bối cảnh chuyển mình bước vào giai đoạn phát triển mới, đất nước ta đứng trước những thời cơ và thách thức đan xen. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xu thế chuyển đổi số, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi hệ thống chính trị, đặc biệt là bộ máy nhà nước phải được tổ chức theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ nhân dân và thích ứng linh hoạt với mọi biến động của thời đại. Trong bối cảnh đó, việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước không chỉ là nhiệm vụ hành chính, mà là thước đo bản lĩnh chính trị, tinh thần đổi mới và tầm nhìn chiến lược của Đảng ta. Bởi lẽ, cải cách bộ máy liên quan đến lợi ích của nhiều cá nhân, tổ chức, đòi hỏi sự kiên quyết, dũng cảm, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Một lần nữa, đứng trước những yêu cầu to lớn, đầy khó khăn và phức tạp ấy, Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò tiên phong, bản lĩnh đổi mới và quyết tâm hành động vì nhân dân, vì mục tiêu phát triển bền vững và thịnh vượng của đất nước.

2. Nội dung

2.1. Bản lĩnh chính trị của Đảng

Bản lĩnh là một phạm trù rộng, thể hiện phẩm chất kiên định, vững vàng về tư tưởng và hành động, không lay chuyển trước những khó khăn, thách thức của hoàn cảnh. Trong lĩnh vực chính trị, bản lĩnh càng trở nên quan trọng bởi nó quyết định sự thành công hay thất bại trong những thời điểm bước ngoặt. Bản lĩnh chính trị là năng lực kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, là sự tỉnh táo, linh hoạt trong xử lý các tình huống chính trị phức tạp, là khả năng đứng vững trước những áp lực, cám dỗ, giữ trọn niềm tin vào con đường đã chọn. Bản lĩnh chính trị được hình thành trên nền tảng tri thức khoa học vững chắc, đồng thời được củng cố và phát triển thông qua khả năng nhận thức, khái quát hóa và rút ra những tri thức mới từ thực tiễn hoạt động chính trị của chủ thể.

Bản lĩnh chính trị của Đảng được thể hiện qua sự kiên định tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng cách mạng đã lựa chọn; sự nhất quán trong nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động; khả năng vận dụng linh hoạt các sách lược trong từng thời kỳ, từng tình huống cụ thể. Đó còn là tính tự chủ, độc lập trong hoạch định và triển khai đường lối, chính sách; là thái độ chủ động, quyết đoán khi đối diện với những tình huống chính trị - xã hội phức tạp, khó lường. Bản lĩnh ấy còn thể hiện ở khả năng nhạy bén trước cái mới, tinh thần đổi mới không ngừng để thích ứng với bối cảnh và yêu cầu phát triển. Đặc biệt, bản lĩnh chính trị là sự kiên định về tư tưởng, trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chế độ chính trị mà người đảng viên đã tự nguyện lựa chọn và không ngừng phấn đấu vì lý tưởng đó. Tinh thần ấy được thể hiện qua thái độ kiên quyết, sự tự chủ, độc lập trong tư duy, linh hoạt và sáng tạo trong hành động. Bản lĩnh chính trị của Đảng còn được khẳng định ở khả năng nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh khuyết điểm, dám thừa nhận và nghiêm túc sửa chữa sai lầm, từ đó không ngừng đổi mới, hoàn thiện để tiến lên.

Bản lĩnh chính trị của Đảng là kết tinh của nhiều yếu tố cấu thành. Trước hết, đó là tính khoa học, đúng đắn của nền tảng tư tưởng, đường lối chính trị được xây dựng trên cơ sở hệ thống lý luận cách mạng khoa học của Đảng. Đồng thời, bản lĩnh ấy còn bắt nguồn từ sự giác ngộ sâu sắc lý tưởng cách mạng, tinh thần tiên phong và năng lực sáng tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đó còn là sự hội tụ của trí tuệ, kinh nghiệm từng trải của các nhà lãnh đạo, những người giữ vai trò định hướng và dẫn dắt phong trào cách mạng, như V.I.Lênin khẳng định: “quần chúng phân chia thành giai cấp, mà các giai cấp thì do các chính đảng lãnh đạo, và đứng đầu các đảng là những nhà lãnh đạo dày kinh nghiệm và có uy tín”(1). Bên cạnh đó, truyền thống đấu tranh kiên cường và kinh nghiệm lịch sử phong phú của Đảng cũng là nền tảng quan trọng làm nên bản lĩnh chính trị vững vàng của một đảng cách mạng chân chính. Truyền thống cách mạng là điểm tựa tinh thần giúp cán bộ, đảng viên thêm vững tin, vượt khó. Kinh nghiệm lịch sử là cơ sở để Đảng ứng phó hiệu quả với tình huống phức tạp và tránh mắc sai lầm.

Bản lĩnh chính trị dám đổi mới của Đảng là biểu hiện cụ thể và sáng tạo của bản lĩnh chính trị. Đó là năng lực vượt qua lối mòn tư duy, dám đề xuất cái mới, thực hiện cái mới, chịu trách nhiệm về cái mới vì sự phát triển tiến bộ. Bản lĩnh chính trị dám đổi mới thể hiện ở tầm nhìn chiến lược, thái độ khách quan, khoa học khi đánh giá thực trạng, ở hành động dám nghĩ, dám làm và không né tránh khó khăn. Trong quản trị quốc gia, đặc biệt là trong cải cách thể chế, bộ máy nhà nước, bản lĩnh chính trị dám đổi mới đóng vai trò quyết định. Nó là nền tảng để Đảng lãnh đạo toàn diện và hiệu quả, để vượt qua lực cản của tư duy cũ kỹ, lợi ích cục bộ và mở đường cho sự phát triển mạnh mẽ, bền vững.

2.2. Bản lĩnh chính trị của Đảng qua các chặng đường lịch sử

Ngay từ khi ra đời mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rõ bản lĩnh chính trị vững vàng của mình thông qua sự kiên định mục tiêu chiến lược: giành độc lập dân tộc gắn với con đường tiến lên CNXH. Giai đoạn 1936-1939 cho thấy bản lĩnh chính trị và sự linh hoạt trong phương thức đấu tranh của Đảng. Trước bối cảnh đảng cánh tả lên nắm quyền ở Pháp, Đảng ta chủ trương đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, dân quyền. Nhờ đó, phong trào cách mạng thu hút đông đảo quần chúng thông qua các tổ chức do Đảng lãnh đạo, góp phần cải thiện đời sống chính trị - xã hội và củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng. Đội ngũ đảng viên được tôi luyện qua thực tiễn và tích lũy kinh nghiệm từ hoạt động nghị trường ngày càng trưởng thành về bản lĩnh và năng lực chính trị. Nhiều cán bộ lãnh đạo đã trưởng thành từ thực tiễn viết báo, tổ chức xuất bản báo trong giai đoạn này - nền tảng quan trọng cho hoạt động cách mạng sau này.

Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta thể hiện rõ bản lĩnh hành động quyết đoán và nhạy bén chính trị khi kịp thời chớp thời cơ lịch sử, lãnh đạo nhân dân tiến hành tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước, giành chính quyền về tay nhân dân và khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bối cảnh lúc bấy giờ diễn ra thuận lợi cho cách mạng: phát xít Nhật vừa đầu hàng Đồng minh, quân Pháp chưa kịp quay trở lại, các thế lực phản động trong nước suy yếu, trong khi phong trào đấu tranh của quần chúng được tôi luyện, đang phát triển mạnh mẽ. Trước tình hình đó, nếu Đảng không kịp thời phát động khởi nghĩa trên quy mô toàn quốc, đặc biệt là ở các trung tâm đô thị, thì thời cơ có thể trôi qua, thậm chí cách mạng có nguy cơ bị tổn thất nghiêm trọng.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bản lĩnh của Đảng ta thể hiện từ việc kiên định con đường đã chọn dù khó khăn, chấp nhận hy sinh để giữ vững nền độc lập dân tộc. Đảng không ngừng sáng tạo về chiến lược và chiến thuật, luôn biết phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là những cột mốc lịch sử rực rỡ, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, tầm nhìn chiến lược và ý chí kiên cường của Đảng. Những thắng lợi đó là kết quả trực tiếp của bản lĩnh chính trị kiên định, tinh thần đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và sẵn sàng chịu trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc.

Bản lĩnh chính trị của Đảng không chỉ thể hiện qua lãnh đạo kháng chiến mà còn qua thái độ dũng cảm nhìn nhận và sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất (1953-1955). Đảng thẳng thắn thừa nhận “có phạm sai lầm nghiêm trọng”(2) và nghiêm túc đề ra các biện pháp sửa sai. Trong “Thư gửi đồng bào nông thôn và cán bộ nhân dịp cải cách ruộng đất ở miền Bắc căn bản hoàn thành” đăng trên Báo Nhân dân ngày18-8-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khẳng định ý nghĩa lịch sử to lớn của cải cách ruộng đất đối với cách mạng Việt Nam, vừa chỉ rõ những khuyết điểm, sai lầm trong quá trình thực hiện: “Trung ương Đảng và Chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, khuyết điểm ấy, và đã có kế hoạch kiên quyết sửa chữa, nhằm đoàn kết cán bộ, đoàn kết nhân dân, ổn định nông thôn, đẩy mạnh sản xuất(3).

Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, tuy đạt được một số thành tựu, nhưng mô hình kinh tế tập trung, bao cấp đã bộc lộ nhiều hạn chế, đất nước lún dần vào khủng hoảng trầm trọng. Trước tình thế đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng ta đã dũng cảm khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện tại Đại hội VI (năm 1986). Quyết định này không dễ dàng, bởi tư duy đổi mới khi ấy phải vượt qua áp lực lớn từ lối suy nghĩ giáo điều, duy ý chí và sự bám víu vào cơ chế kế hoạch hóa, tập trung đã ăn sâu trong nhiều cán bộ, đảng viên. Đảng ta nhận khuyết điểm “Những sai lầm và khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng trước hết thuộc về trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng… làm cho sự lãnh đạo của Đảng trong những năm gần đây không đáp ứng những đòi hỏi của tình hình mới. Ban Chấp hành Trung ương xin tự phê bình nghiêm túc về những khuyết điểm của mình trước Đại hội”(4). Đồng thời đề xướng sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước vượt qua khó khăn phát triển vững mạnh với những thành tựu to lớn như ngày hôm nay.

Nhìn lại những dấu mốc quan trọng trong lịch sử, có thể thấy bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn được hun đúc qua thử thách lịch sử, thể hiện ở sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp, dũng cảm đối diện và sửa chữa sai lầm, mạnh dạn đổi mới để đưa đất nước phát triển. Chính bản lĩnh ấy đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam vượt qua mọi cam go, làm nên những bước ngoặt lịch sử vĩ đại, tạo nền tảng cho một Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(5).

2.3. Bản lĩnh chính trị dám đổi mới của Đảng trong sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước

Để tiến bước vào kỷ nguyên phát triển mới với yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thích ứng với những biến đổi nhanh chóng của thời đại, đất nước ta đứng trước đòi hỏi cấp thiết phải sắp xếp, tinh gọn bộ máy, xây dựng nền hành chính hiện đại, minh bạch, phục vụ nhân dân. Sự cồng kềnh, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ; tình trạng nhiều tầng nấc trung gian, biên chế phình to; hiệu suất công việc chưa tương xứng với nguồn lực chi trả… là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Đây không chỉ là thách thức về mặt kỹ thuật tổ chức, mà còn là phép thử lớn về bản lĩnh chính trị, sự dũng cảm cải cách của Đảng.

Trong điều kiện đó, Đảng ta tiếp tục thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, dám đối diện với chính mình, nhìn thẳng vào sự trì trệ, lãng phí, và mạnh dạn thực hiện đổi mới. Thấm nhuần tư tưởng “Thà ít mà tốt” của V.I.Lênin, Đảng ta luôn xác định việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Từ Nghị quyết số 06-NQ/HNTW ngày 29-3-1989 của Hội nghị Trung ương 6 khóa VI về “kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới”, cho đến các văn kiện Đại hội IX, XII, XIII và Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV, Đảng ta đều nhấn mạnh yêu cầu sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ phát triển mới.

Ngày 25-10-2017, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Nghị quyết số 18-NQ/TW đề ra mục tiêu: “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; giảm chi thường xuyên và góp phần cải cách chính sách tiền lương”(6).

Triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã từng bước được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và bước đầu ghi nhận nhiều kết quả tích cực: “Trong hệ thống hành chính nhà nước, khối bộ, ngành đã giảm 17 tổng cục, 10 cục và 144 vụ/ban; cấp địa phương giảm 13 sở, gần 2.600 phòng cấp tỉnh, huyện. Đối với đơn vị sự nghiệp công lập, đến cuối năm 2023 đã giảm hơn 8.100 đơn vị (tương đương 15,13%), còn 46.540 đơn vị. Về đơn vị hành chính, hai giai đoạn 2019-2021 và 2023-2025 đã sắp xếp, giảm tổng cộng 17 đơn vị cấp huyện và 1.124 đơn vị cấp xã”(7).

Tuy nhiên, quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Việc thực hiện còn thiếu đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với tinh giản biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Bộ máy vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan còn chồng chéo; phân cấp, phân quyền chưa thật sự hợp lý. Những bất cập này trở thành lực cản đối với sự phát triển, làm suy giảm hiệu lực quản lý và hạn chế tính linh hoạt trong vận hành của bộ máy nhà nước.

Trước những hạn chế, bất cập đó, Đảng ta - đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm một lần nữa thể hiện quyết tâm, bản lĩnh dám đổi mới để xây dựng hệ thống chính trị “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”. Trong bối cảnh mới, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải đẩy mạnh cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng toàn diện, thực chất. Trọng tâm là xây dựng và triển khai mô hình tổng thể phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới; đồng thời, đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện thể chế theo phương châm “vừa chạy, vừa xếp hàng” nhằm sớm hiện thực hóa chủ trương của Đảng trong thực tiễn. Việc sắp xếp tổ chức gắn chặt với việc cơ cấu lại đội ngũ cán bộ bảo đảm phẩm chất, năng lực, bố trí biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh, qua đó xây dựng bộ máy thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Việc lựa chọn thời điểm để khởi động công cuộc cải tổ sâu rộng tổ chức bộ máy là một quyết định có tầm chiến lược và mang ý nghĩa lịch sử. Tổng Bí thư Tô Lâm xác định đây là thời điểm then chốt - khi cả hệ thống chính trị đang tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Cùng với đó, đất nước bước vào những cột mốc lịch sử trọng đại: 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và 80 năm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Trong bối cảnh đó, đẩy mạnh sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy không chỉ là yêu cầu mang tính tất yếu, mà còn là bước đi có ý nghĩa chiến lược nhằm đưa đất nước tiến nhanh, tiến vững, thích ứng linh hoạt với xu thế vận động của thời đại, từng bước khẳng định vị thế mới, tầm vóc mới của Việt Nam trên trường quốc tế.

Định hướng chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược cùng bản lĩnh chính trị, tạo nên bước chuyển mang tính đột phá về chất trong xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đây chính là nền tảng quan trọng để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, thúc đẩy đất nước bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc.

Để thực hiện thành công công cuộc sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước, Đảng ta cần tiếp tục lãnh đạo thực hiện tốt các mặt sau đây:

Một là, việc sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện và sáp nhập, tinh gọn cấp xã, phường là một trong những bước đi, có tính cải cách sâu rộng. Do đó, yêu cầu đặt ra không chỉ là tổ chức lại bộ máy hành chính, mà còn là thiết kế lại toàn bộ quy trình quản trị theo hướng khoa học, hiện đại, liên thông, liên cấp, phân cấp, phân quyền và gần dân hơn. Việc cắt giảm tầng nấc trung gian không đồng nghĩa với rút bớt trách nhiệm mà là yêu cầu tái cấu trúc chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm việc quản lý vẫn hiệu quả nhưng linh hoạt và gọn nhẹ hơn, đồng thời thúc đẩy sự chủ động, sáng tạo từ cơ sở và nâng cao vai trò điều phối chiến lược của cấp tỉnh. Quan trọng hơn là bảo đảm được nguyên tắc “tinh gọn nhưng không bỏ sót chức năng”, “giảm cấp nhưng không giảm chất lượng phục vụ”, “cắt tầng nấc nhưng không làm loãng trách nhiệm”.

Đây là việc làm hết sức khó khăn, phức tạp, do vậy, đòi hỏi Đảng phải phát huy trí tuệ, bản lĩnh trong chỉ đạo, lãnh đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, khoa học, không nóng vội, chủ quan.

Hai là, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy nhà nước tất yếu sẽ tác động trực tiếp đến tâm tư, quyền lợi của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị. Do đó, việc bảo đảm thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với những đối tượng chịu ảnh hưởng không chỉ là yêu cầu thực tiễn mà còn là nguyên tắc cần được quán triệt nghiêm túc trong quá trình triển khai. Cơ chế, chính sách cần được thiết kế trên cơ sở công bằng, hợp lý và hài hòa giữa các nhóm đối tượng, nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng, ổn định đời sống và không để ai bị gạt ra ngoài lề trong tiến trình đổi mới tổ chức bộ máy. Quá trình xây dựng và thực thi chính sách cần gắn chặt với trách nhiệm của người đứng đầu trong đánh giá, phân loại, sàng lọc và lựa chọn cán bộ thuộc diện nghỉ chế độ một cách khách quan, công tâm và minh bạch. Gắn kết chặt chẽ giữa tinh giản biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ, tránh tình trạng mất mát nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời tạo điều kiện để giữ những cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực, xứng đáng đảm nhận trọng trách trong giai đoạn mới.

Đây cũng là vấn đề khó khăn, nhạy cảm, đòi hỏi Đảng phải phát huy uy tín, bản lĩnh để xử lý khéo léo, khách quan, hợp tình, đạt lý, tránh gây tâm lý bất mãn trong cán bộ, công chức trước mắt và lâu dài.

Ba là, tinh gọn tổ chức bộ máy phải đi cùng với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; biên chế được phân bổ hợp lý, chức danh được chuẩn hóa theo từng cấp, từng loại hình tổ chức. Cần sớm ban hành khung tiêu chuẩn, tiêu chí bố trí cán bộ từ trung ương đến cơ sở để chủ động rà soát, lựa chọn, sắp xếp. Đổi mới mạnh mẽ các khâu tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm, luân chuyển, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, căn cứ vào kết quả cụ thể, đo lường được; tuyệt đối không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đánh giá cán bộ. Đồng thời, thiết lập cơ chế sàng lọc hiệu quả để kịp thời đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ không còn đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và tạo điều kiện để những người thực sự có năng lực, triển vọng được trọng dụng.

Để thực hiện tốt điều này, Đảng phải cẩn trọng, tỷ mỷ, có bước đi, lộ trình cụ thể trong từng giai đoạn, cho từng con người, chức danh cụ thể.

Bốn là, phát huy bản lĩnh của Đảng trong đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát nghiêm minh, chặt chẽ từ trên xuống dưới, nhằm ngăn chặn hiệu quả các hành vi lợi dụng quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy để trục lợi cá nhân, tham nhũng hoặc gây rối nội bộ. Những trường hợp lợi dụng cải cách tổ chức để gây chia rẽ, làm tổn hại uy tín của Đảng và cơ quan, đơn vị phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, bảo đảm giữ vững kỷ cương và tính liêm chính trong hệ thống chính trị. Song song đó, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc tham gia giám sát, phản biện quá trình triển khai xây dựng các mô hình tổ chức bộ máy mới, tạo nền tảng đồng thuận và công khai minh bạch trong quá trình đổi mới.

3. Kết luận

Sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước là nhiệm vụ lớn, mang tính đột phá, thể hiện bản lĩnh chính trị, bản lĩnh đổi mới của Đảng ta. Đó là biểu hiện sinh động của tinh thần vì dân, vì nước, dám hành động vì sự tiến bộ chung. Những thành quả bước đầu đã minh chứng cho hướng đi đúng đắn, cho bản lĩnh lãnh đạo của Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới. Thời gian tới, để công cuộc sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước đạt kết quả thiết thực rất cần sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn dân, nhưng cũng rất cần bản lĩnh vững vàng, kiên định, trí tuệ, kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo. Bản lĩnh dám đổi mới của Đảng ta trong sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước không phải là khẩu hiệu, mà là phẩm chất hành động, là trách nhiệm trước lịch sử và tương lai. Đảng ta đã, đang và sẽ tiếp tục khẳng định bản lĩnh ấy - bản lĩnh dám đổi mới vì nhân dân, vì sự hưng thịnh của quốc gia dân tộc.

_________________

Ngày nhận bài: 14-7-2025; Ngày bình duyệt: 09-9-2025; Ngày duyệt đăng:11-10-2025.

Email tác giả: lephuchv3@gmail.com

(1) V.I. Lênin: Toàn tập, t.41, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.XV.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.7.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.412.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.27.

(5) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.34.

(6) Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.

(7) Phạm Thanh Trà: Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm, https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 15-2-2025.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước - bản lĩnh chính trị dám đổi mới của Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới
    POWERED BY