(LLCT) - Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân Việt Nam, đặc biệt là trong xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bài viết khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó gợi mở giải pháp nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm và trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về đại đoàn kết dân tộc trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
TS ĐÀO THỊ HOÀN
Viện Lịch sử Đảng
1. Mở đầu
Quá trình lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên những truyền thống quý báu, yêu nước và đoàn kết dân tộc, tạo nên giá trị cốt lõi. Đoàn kết và yêu nước là hai giá trị gắn bó chặt chẽ với nhau. Yêu nước là chất keo gắn kết người dân các dân tộc, tôn giáo, làm nên sức mạnh đoàn kết vĩ đại của dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc làm nên sức mạnh vô địch để hiện thực hóa chủ nghĩa yêu nước. Đoàn kết dân tộc trên tinh thần yêu nước và yêu nước trước hết thể hiện ở tình đoàn kết. Sẽ không thể nói là yêu nước nếu đi ngược lại tinh thần đoàn kết dân tộc.
Kế thừa và phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc và trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sức mạnh của quần chúng nhân dân, Hồ Chí Minh luôn khẳng định đại đoàn kết không phải là sách lược mà là chiến lược lâu dài, là sức mạnh vô địch: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
2. Nội dung
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Lịch sử Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã minh chứng sinh động quan điểm của Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh “giúp Cách mạng tháng Tám thành công”, “đã giúp kháng chiến thắng lợi” và “sẽ động viên nhân dân từ Bắc đến Nam đấu tranh để thực hiện hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước”(1).
Những biến cố lịch sử thế giới cuối thế kỷ XX, với sự tan rã của nhiều quốc gia, sự gia tăng các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo đã cho thấy nguy cơ phân ly và sự suy giảm sức mạnh quốc gia dân tộc do sự đoàn kết sắc tộc, tôn giáo rạn nứt, suy yếu. Thực tiễn càng minh chứng quan điểm của Hồ Chí Minh về “động lực lớn”, “động lực vĩ đại” và tại những thời điểm “tình thế” cách mạng” khó khăn, thách thức, đoàn kết là động lực “duy nhất”(2) của dân tộc.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là một chỉnh thể gồm chủ thể lãnh đạo, lực lượng, đồng minh, nguyên tắc, phương pháp đoàn kết, tập hợp. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công trước hết phải xác định rõ lực lượng liên minh nòng cốt để hợp lực của các giai cấp, tầng lớp trong mặt trận dân tộc thống nhất, tạo thành sức mạnh nội sinh của cách mạng. Sức mạnh nội sinh đó là trụ cột để mở rộng đoàn kết quốc tế.
Phải đoàn kết đại đa số nhân dân, trong đó “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất” và để đoàn kết rộng rãi thì nền tảng phải vững.
Về cách thức tập hợp, đoàn kết, cần tổ chức mặt trận dân tộc thống nhất để gắn kết quần chúng vào các tổ chức, để hướng lực lượng quần chúng vào thực hiện mục tiêu cách mạng.
Để tập hợp các tầng lớp nhân dân, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất Đảng phải giữ vững vai trò lãnh đạo và thực hiện các phương thức lãnh đạo hiệu quả. Trước hết, đường lối, chủ trương của Đảng phải phù hợp với nguyện vọng của đại đa số nhân dân, là hiện thân của lợi ích quốc gia dân tộc; giữ mối liên hệ máu thịt với nhân dân; tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục nhân dân tin theo và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng; tổ chức mặt trận và các đoàn thể phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Cần nhận diện và phân hóa lực lượng trung gian, lực lượng phản cách mạng.
Nguyên tắc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích của quốc gia dân tộc với lợi ích chính đáng của các giai cấp, tầng lớp. Phải luôn giữ vững quan điểm “dân là gốc”, tin vào dân, dựa vào dân, vì nhân dân. Đoàn kết tự giác, tự nguyện, thành thật, đoàn kết lâu dài.
Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam”. Trong các giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng và phát huy mạnh mẽ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc làm nên thắng lợi.
2.2. Bối cảnh mới và yêu cầu đối với vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) đánh giá và dự báo thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế”(3).
“Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng”(4); trong bối cảnh đó, “Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới”(5).
Bối cảnh mới đặt ra những vấn đề mới về mục tiêu, chính sách, hình thức và biện pháp xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế.
Trước hết, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Đảng cũng phải dự báo đúng tình hình, nắm bắt xu hướng vận động; đường lối, chủ trương phản ánh đúng nguyện vọng nhân dân, thực hiện chỉ dẫn của Hồ Chí Minh: “Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh, và như vậy mới thật là một phong trào quần chúng”(6).
Trên cơ sở nền tảng đường lối của Đảng, Mặt trận dân tộc thống nhất phải xây dựng được “cương lĩnh đại đoàn kết” vững chắc, rộng rãi và rất thiết thực. Thiết thực khi phù hợp với nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Rộng rãi khi đoàn kết tất cả những người yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị, tín ngưỡng tôn giáo. Vững chắc khi dựa trên nền tảng đại đa số nhân dân, tất cả các tầng lớp xã hội.
Rộng rãi, vững chắc, thiết thực, đó là phương châm Hồ Chí Minh trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Để thực hiện phương châm đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Cái tên Việt Nam độc lập đồng minh rất rõ rệt, thiết thực và hợp với nguyện vọng toàn dân. Thêm vào đó, chương trình giản đơn, thiết thực mà đầy đủ của Mặt trận gồm có 10 điểm như bài ca tuyên truyền đã kể: “Có mười chính sách bày ra/Một là ích quốc, hai là lợi dân”. Mười điểm ấy, gồm những điểm chung cho toàn thể dân tộc và những điểm đấu tranh cho quyền lợi của công nhân, nông dân và cho mọi tầng lớp nhân dân”(7).
Từ mục tiêu làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được sung sướng tự do trong Chương trình Việt Minh đến tiêu chí của nước Việt Nam mới là Độc lập -Tự do - Hạnh phúc, là những mục tiêu bất biến và chung nhất của dân tộc. Trên nền tảng lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng, Đảng ta đã xây dựng thành công khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc, làm cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi và lãnh đạo toàn dân xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Song, trong từng giai đoạn, mục tiêu đó được cụ thể hóa thành những mục tiêu trong ngắn hạn để thực hiện. Trong kháng chiến, kiến quốc (1945-1954) là nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường và sau năm 1954 là xây dựng nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Trong bối cảnh mới, Đại hội XIII của Đảng khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh nội sinh mạnh mẽ để thực hiện mục tiêu phát triển: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc…”(8), nhằm phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với mục tiêu trở thành nước đang phát triển, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và là nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, đòi hỏi phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Yêu cầu đặt ra đó là:
Xác định rõ xây dựng, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của Đảng và cả hệ thống chính trị. Đoàn kết thống nhất là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết trong hệ thống chính trị, đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội giữ vai trò nòng cốt chính trị trong tập hợp, đoàn kết, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh hiện nay, để tiếp tục thực hiện mục tiêu bất biến của dân tộc là Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, cần nhận thức được vị trí, vai trò, nhiệm vụ của đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới, nắm vững những điểm chung, điểm tương đồng để xây dựng khối thống nhất dân tộc trên cơ sở đáp ứng lợi ích của các giai tầng, các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở trong và ngoài nước.
Đường lối, chủ trương của Đảng trong xây dựng đất nước cần tiếp tục được tuyên truyền sâu rộng hơn để toàn dân tộc tán thành và phấn đấu vì mục tiêu chung, đồng thời chấp nhận các điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; xoá bỏ mọi định kiến, mặc cảm, hướng về tương lai, vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đó chính là mục tiêu phấn đấu, là tiêu chí thể hiện sự gắn bó giữa lợi ích của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, của giai cấp công nhân và của dân tộc ta.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ gắn với thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà còn phải kết hợp với phát huy sức mạnh thời đại, của hòa bình, hợp tác và phát triển, của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế với xu thế của các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với phát huy ý chí toàn dân tộc vì mục tiêu, khát vọng phát triển đất nước. Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh công - nông - trí do Đảng lãnh đạo; đó là mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ; đó là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau,...
Bối cảnh mới đặt ra những yêu cầu về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo đồng thời Đảng tự đặt mình trong mối quan hệ bình đẳng, dân chủ với các thành viên khác trong hệ thống chính trị. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”(9).
Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc là nền tảng để thực hiện thắng lợi chiến lược đại đoàn kết dân tộc, phát huy nguồn nội lực vững chắc để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường.
Như vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với khối đại đoàn kết toàn dân tộc phụ thuộc vào sự thể hiện trên thực tế sự giữ vững bản chất của Đảng, vào sự đúng đắn của đường lối, chủ trương và năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và toàn xã hội. Do đó, Đảng cần thường xuyên nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương trên các lĩnh vực bảo đảm đúng đắn, đồng thời chú trọng việc bổ sung, hoàn chỉnh Cương lĩnh, Chương trình hành động của Mặt trận; kiện toàn cơ quan và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Xây dựng Đảng luôn là một Đảng trí tuệ, đoàn kết, thống nhất, thực sự là hạt nhân xây dựng, củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, “đoàn kết dân tộc vừa là động lực, vừa là mục tiêu, là nhiệm vụ chiến lược, đoàn kết thật sự, lâu dài và “đoàn kết dân tộc không phải là thủ đoạn chính trị””(10). Cần xây dựng và hoàn thiện các quy chế phối hợp giữa Đảng - Nhà nước - Mặt trận, mô hình tổ chức và luật hóa trách nhiệm quyền hạn của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Phân công những đảng viên có năng lực, phẩm chất và nhiệt tình tham gia công tác mặt trận, có chính sách phù hợp với cán bộ làm công tác mặt trận, đoàn thể.
Hồ Chí Minh căn dặn: “Cán bộ làm công tác mặt trận phải tích cực và phải chủ động giúp cấp ủy đảng lãnh đạo công tác mặt trận; phổ biến và thực hiện chính sách của Đảng về mặt trận; làm việc phải kiên nhẫn, phải tha thiết với công tác mặt trận”(11). Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, cần “luôn luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ các lực lượng có thể tranh thủ được, đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận”; “đấu tranh trên hai mặt trận như thế, thì vai trò lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận dân tộc thống nhất mới được đảm bảo, nền tảng công nông của Mặt trận mới được vững chắc, tính chất rộng rãi của Mặt trận mới được phát huy đầy đủ”(12).
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023 “về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” với những quan điểm, mục tiêu, giải pháp cụ thể. Trong đó, Trung ương Đảng khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là sợi chỉ đỏ, truyền thống quý báu, chủ trương, đường lối quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn góp phần quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, xác định bốn quan điểm lớn: (1) Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; (2) Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 làm điểm tương đồng để động viên, cổ vũ nhân dân đồng lòng, chung sức thực hiện vì tương lai của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân. (3) Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của Nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. (4) Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của Đảng và cả hệ thống chính trị(13).
Xác định bảy nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: (1) Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và Nhân dân về vị trí, tầm quan trọng của việc phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; (2) Hoàn thiện chủ trương, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước; (3) Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; tăng cường đoàn kết trong Đảng, giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; (4) Nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; (5) Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiềm năng và sức sáng tạo của Nhân dân; (6) Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, huy động mọi nguồn lực cho phát triển đất nước; (7) Tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước thiết thực, hiệu quả.
Cụ thể hóa Nghị quyết số 43-NQ/TW, cần tập trung thực hiện những giải pháp cơ bản trên các lĩnh vực nhằm tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo và củng cố mối quan hệ Đảng - Nhà nước - Mặt trận - Nhân dân, nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, để “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hòa các quan hệ; lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”(14).
Xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân để các chính sách được ban hành và thực hiện trên tất cả các lĩnh vực hướng tới nhân dân, tăng cường đại đoàn kết toàn dân. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện công bằng xã hội song song với việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, tăng cường ý thức tôn trọng pháp luật, tạo môi trường công bằng, bình đẳng, từ đó củng cố và mở rộng Mặt trận.
Hai là, về kinh tế, có chính sách nhất quán và lâu dài, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế. Thúc đẩy sự thay đổi cơ cấu nền kinh tế, bảo đảm sự phát triển cân đối và hợp lý giữa các ngành, vùng, tạo cơ hội về việc làm và giảm thiểu sự cách biệt về kinh tế giữa các vùng, khu vực và giữa các tầng lớp nhân dân; điều tiết thu nhập xã hội kết hợp với các nguồn phúc lợi để làm tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa và hỗ trợ các hộ nghèo và đồng bào ở các vùng sâu, xa, khó khăn....
Phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc của đội ngũ doanh nhân, “chú trọng phát triển đội ngũ doanh nhân vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế của Việt Nam theo tinh thần xây dựng “đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi”(15).
Ba là, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá, con người Việt Nam; coi trọng giáo dục chủ nghĩa yêu nước, đạo đức, lễ nghĩa, lành mạnh hoá quan hệ gia đình, xã hội, nuôi dưỡng tâm lý và trách nhiệm cộng đồng, tạo dựng những cơ sở văn hoá và tinh thần đại đoàn kết dân tộc cả bề rộng lẫn chiều sâu.
Bốn là, tự đổi mới, luôn đổi mới là phương thức tồn tại và phát triển của Mặt trận, để mở rộng khối đoàn kết toàn dân tộc. Đổi mới các tổ chức chính trị -xã hội, cả về tổ chức và phương thức hoạt động, bảo đảm thiết thực, bảo vệ quyền lợi chính đáng của thành viên. Các đoàn thể tổ chức các phong trào hoạt động, các phong trào thi đua để tập hợp nhân dân, xây dựng Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội.
3. Kết luận
Đại đoàn kết và phát huy mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là đem “tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”, không ngừng nâng cao đời sống của nhân, để phát huy mọi tiềm năng, sức sáng tạo của mọi người Việt Nam vào xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc là nền tảng để thực hiện thắng lợi chiến lược đại đoàn kết dân tộc, phát huy nguồn nội lực vững chắc để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường.
_________________
Ngày nhận bài: 17-02-2025; Ngày bình duyệt: 19-2-2020; Ngày duyệt đăng: 20-02-2025.
Email tác giả: minhphuc06@gmail.com
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.104
(2), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Sđd, tr. 513, XVI
(3), (4), (5), (8), (14), (15) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.105, 105, 106, 110, 165, 167-168
(6), (7). Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđ d, tr. 21, 23-24
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, tr. 168
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Sđd, tr. 455
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Sđd, tr. 417
13. Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023 “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.