(LLCT) - Văn hóa truyền thống Việt Nam là nền tảng tinh thần, là “hồn cốt” của dân tộc, là sức mạnh nội sinh để phát triển đất nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các giá trị văn hóa truyền thống không chỉ là di sản quý báu mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc định hình bản sắc quốc gia và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Bài viết phân tích vai trò của văn hóa truyền thống trong xây dựng bản sắc quốc gia, đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra, đồng thời đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.
TS PHẠM ĐÌNH KHUÊ
Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội
1. Mở đầu
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh thúc đẩy sự phát triển bền vững của một quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “văn hóa phải soi đường cho quốc dân”, nhằm khẳng định vai trò của văn hóa trong việc định hình bản sắc dân tộc và định hướng con đường phát triển của đất nước.
Trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, văn hóa truyền thống Việt Nam trở thành một lá chắn vững chắc giúp giữ gìn bản sắc dân tộc, đồng thời là cầu nối để Việt Nam quảng bá hình ảnh đất nước ra thế giới. Quá trình đô thị hóa, sự phát triển kinh tế và sự xâm nhập mạnh mẽ của văn hóa ngoại lai đã và đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với văn hóa truyền thống. Những giá trị cốt lõi của đời sống cộng đồng như lễ hội, phong tục tập quán hay các loại hình nghệ thuật dân gian dần bị mai một hoặc biến đổi theo hướng thương mại hóa, mất đi bản chất nguyên gốc. Tình trạng này đặt ra yêu cầu bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống trong xã hội hiện đại để văn hóa truyền thống không chỉ tồn tại dưới dạng di sản mà còn thực sự sống trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam.
2. Nội dung
2.1. Vai trò của văn hóa truyền thống
Văn hóa truyền thống Việt Nam là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được hình thành, lưu truyền qua nhiều thế hệ, gắn bó chặt chẽ với đời sống của cộng đồng dân tộc. Đây là kết quả của quá trình tích lũy lịch sử, gắn với môi trường sống, lao động sản xuất và tâm thức của người Việt. Văn hóa truyền thống không bất biến mà luôn được kế thừa, chọn lọc và phát triển qua thời gian, góp phần làm nên bản sắc riêng có của dân tộc Việt Nam. Các thành tố cấu thành văn hóa truyền thống rất phong phú, bao gồm tín ngưỡng dân gian, phong tục, tập quán, lễ hội, trang phục, ẩm thực, nghệ thuật dân gian, tri thức bản địa và hệ giá trị đạo đức như nhân nghĩa, hiếu kính, gắn bó cộng đồng. Đây chính là nền tảng tạo nên chiều sâu văn hóa, bản lĩnh và bản sắc dân tộc Việt Nam.
Bản sắc quốc gia hiện nay là tổng hòa các giá trị văn hóa truyền thống được kế thừa, phát huy và thích nghi trong điều kiện hiện đại. Đó không chỉ là những biểu tượng đặc trưng như tà áo dài, nhã nhạc cung đình, ẩm thực dân tộc, mà còn là những giá trị mới như tinh thần đổi mới, sáng tạo, khả năng hội nhập, ý thức tự cường và lòng yêu nước. Bản sắc quốc gia là căn cứ để phân biệt một dân tộc với các dân tộc khác, đồng thời là cơ sở để khẳng định vị thế và bản lĩnh quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
Trong suốt chiều dài lịch sử, văn hóa truyền thống Việt Nam luôn là nguồn lực tinh thần to lớn, góp phần hun đúc lòng yêu nước, ý chí độc lập dân tộc và sức mạnh đoàn kết cộng đồng. Trong thời kỳ Bắc thuộc, mặc dù chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa phương Bắc, người Việt vẫn giữ được bản sắc riêng nhờ tính bền bỉ của văn hóa làng xã và phong tục tập quán truyền thống.
Khi bước vào thời kỳ tự chủ (từ thế kỷ X), văn hóa Việt Nam phát triển rực rỡ, đặc biệt dưới các triều đại Lý, Trần, Lê. Đây là giai đoạn văn hóa Đại Việt hình thành, với sự giao thoa hài hòa giữa các tôn giáo lớn như Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo cùng tín ngưỡng bản địa. Các giá trị văn hóa như tinh thần yêu nước, đoàn kết cộng đồng và lòng hiếu học được bồi đắp mạnh mẽ, phản ánh qua các công trình kiến trúc, nghệ thuật và văn học. Nhiều di sản thời kỳ này đã trở thành biểu tượng của trí tuệ và sáng tạo dân tộc “Việt Nam là một đất nước với mấy nghìn năm lịch sử, trải qua không biết bao nhiêu sự biến đổi, thăng trầm do thiên nhiên và con người gây ra, đã tích luỹ, tạo ra và phát huy được nhiều giá trị, bản sắc văn hóa riêng của dân tộc, làm nên hồn cốt dân tộc; đồng thời tiếp thu và góp phần đóng góp vào nền văn hóa chung của nhân loại”(1).
Đến thời kỳ hiện đại, văn hóa truyền thống tiếp tục là nền tảng tinh thần quan trọng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước và xây dựng XHCN. Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943) khẳng định ba nguyên tắc dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa, đặt nền móng cho chiến lược bảo tồn và phát triển văn hóa Việt Nam. Văn hóa dân gian, nghệ thuật truyền thống và các lễ hội không chỉ khơi dậy tinh thần yêu nước mà còn tạo nên sức mạnh đoàn kết cộng đồng trong kháng chiến. “Cha ông ta đã để lại cho đất nước Việt Nam giang sơn gấm vóc vô cùng tươi đẹp. Trách nhiệm của các thế hệ hôm nay và mai sau là phải làm cho non sông nước Việt ngày càng giàu đẹp hùng cường”(2).
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, văn hóa truyền thống trở thành yếu tố cốt lõi giúp Việt Nam khẳng định sự khác biệt và độc đáo trên thế giới. “Xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bởi văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc…Văn hóa còn thì dân tộc còn, phải coi văn hóa là “nền tảng tinh thần”, là động lực phát triển và soi đường cho quốc dân đi”(3).
Việt Nam không chỉ nổi bật bởi cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ mà còn ghi dấu ấn sâu đậm qua những giá trị văn hóa đặc sắc, từ trang phục truyền thống, các loại hình nghệ thuật dân gian, nền ẩm thực tinh tế đến các lễ hội đậm chất cộng đồng. Mỗi yếu tố đều mang trong mình câu chuyện lịch sử, tinh thần dân tộc và sự sáng tạo không ngừng của người Việt, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa toàn cầu, có thể khái quát qua các loại hình cụ thể như sau:
Áo dài Việt Nam là một biểu tượng rõ nét của sự duyên dáng và tinh thần dân tộc. Trong các sự kiện quốc tế, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong tà áo dài không chỉ để lại ấn tượng mạnh mẽ mà còn thể hiện nét đẹp độc đáo của văn hóa truyền thống dân tộc, góp phần truyền tải những thông điệp của Việt Nam đến với thế giới(4).
Không chỉ trang phục, các loại hình nghệ thuật dân gian như quan họ Bắc Ninh, nhã nhạc cung đình Huế, hay tranh dân gian Đông Hồ là những giá trị tiêu biểu phản ánh sự sáng tạo và chiều sâu văn hóa Việt Nam. Theo Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO), giá trị văn hóa độc đáo của di sản Việt Nam, không chỉ đóng vai trò bảo tồn truyền thống dân tộc mà còn tạo dấu ấn trên bản đồ văn hóa thế giới, qua đó khẳng định tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát huy di sản phi vật thể trong bối cảnh hội nhập quốc tế. “Việc bảo tồn, phát huy Nhã nhạc tại Thừa Thiên - Huế đã thu được thành quả rất đáng tự hào. Không chỉ là vốn quý, tài sản của dân tộc, đây còn là minh chứng điển hình, đại diện cho khu vực Đông Nam Á về loại hình âm nhạc cổ xưa còn sót lại”(5).
Văn hóa truyền thống Việt Nam là di sản quý báu, đóng vai trò quan trọng trong việc định hình bản sắc dân tộc và phát triển đất nước.
Ẩm thực Việt Nam cũng là một trong những “sứ giả văn hóa” góp phần quảng bá hình ảnh quốc gia. Các món ăn như: phở, nem rán, bún chả, bánh cuốn đã đưa văn hóa Việt đến gần hơn với bạn bè quốc tế. Theo CNN, sức hút của ẩm thực Việt Nam trên trường quốc tế, không chỉ nhờ sự đa dạng và độc đáo mà còn bởi khả năng kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật ẩm thực truyền thống và giá trị dinh dưỡng, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra toàn cầu. “Việt Nam nằm trong top 10 điểm đến ẩm thực được yêu thích nhất thế giới, nhờ sự cân bằng giữa hương vị, dinh dưỡng và cách chế biến tinh tế”(6).
Lễ hội truyền thống và các phong tục như thờ cúng tổ tiên, lễ Tết, không chỉ là dịp để duy trì văn hóa truyền thống mà còn góp phần gắn kết cộng đồng, củng cố tinh thần đoàn kết. Lễ hội Gióng, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, là một minh chứng điển hình. “Tất cả những điều đó làm cho kho tàng lễ hội truyền thống Việt Nam trở nên dày dặn và vô giá. Đó chính là nguồn cảm hứng bất tận, kho tài nguyên quý báu cho mọi sáng tạo nghệ thuật đương đại. Một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chắc chắn phải dựa trên một truyền thống dày dặn, phong phú. Lễ hội cấp cho ta nguồn tài nguyên bất tận cho mọi loại hình nghệ thuật hôm nay. Trên hiện thực quý báu đó, việc nghệ thuật Việt Nam trình diễn một tư cách đặc biệt trên thế giới tùy thuộc vào tài năng, vào ý thức của văn nghệ sĩ và đường lối văn nghệ của chính thể chúng ta”(7).
2.2. Thách thức và những vấn đề đặt ra đối với văn hóa truyền thống Việt Nam
Hiện nay, văn hóa truyền thống Việt Nam đang đứng trước những thách thức của bối cảnh hiện đại hóa và toàn cầu hóa. Những giá trị văn hóa từng là biểu tượng sống động của đời sống dân tộc đang đứng trước nguy cơ mai một, lãng quên hoặc biến đổi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến bản sắc văn hóa và lòng tự hào dân tộc.
Thứ nhất, sự mai một các giá trị văn hóa truyền thống. Các phong tục, nghi lễ và nghệ thuật dân gian - vốn là “linh hồn” của đời sống cộng đồng ngày càng bị lãng quên hoặc biến đổi theo hướng thương mại hóa. “Khá nhiều lễ hội đã bị biến dạng so với nguồn gốc ban đầu, bị pha tạp, lai căng, thậm chí cố bắt chước nước ngoài! Chẳng hạn, coi trọng phần hội hơn phần lễ, tăng cường một cách thiếu thận trọng việc sân khấu hóa nội dung cả phần lễ và phần hội, gán ghép một cách khiên cưỡng nội dung và hình thức hiện đại vào nội dung và hình thức vốn là dân gian truyền thống của lễ hội cổ truyền, gây ra sự khập khiễng, trái khoáy,...”(8).
Thứ hai, các loại hình nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, cải lương đang gặp nhiều khó khăn trong việc tìm lại vị thế trong đời sống văn hóa đương đại. Những buổi biểu diễn nghệ thuật dân gian ngày càng vắng bóng khán giả, đặc biệt là giới trẻ. Báo cáo từ Viện Nghiên cứu Văn hóa năm 2022 cho thấy, chỉ 15% thanh niên Việt Nam quan tâm đến các loại hình nghệ thuật truyền thống này, trong khi đa số bị hấp dẫn bởi các sản phẩm văn hóa hiện đại như phim Hollywood, âm nhạc K-pop(9). Điều này không chỉ làm suy giảm sức sống của các loại hình văn hóa truyền thống mà còn dẫn đến nguy cơ thất truyền đối với các giá trị nghệ thuật cốt lõi của dân tộc.
Thứ ba, một bộ phận giới trẻ quay lưng lại với văn hóa truyền thống. Giới trẻ dễ bị cuốn vào các trào lưu văn hóa ngoại lai, từ phim ảnh, âm nhạc đến lối sống hiện đại, khiến họ dần mất kết nối với cội nguồn văn hóa dân tộc. Nhiều bạn trẻ không còn nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của các phong tục tập quán, nghi lễ hay các loại hình nghệ thuật dân gian. Hiện tượng này không chỉ phản ánh sự thay đổi trong tư duy mà còn làm giảm khả năng kế thừa và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống.
Thứ tư, sự xâm nhập mạnh mẽ của các sản phẩm văn hóa nước ngoài đang tạo nên sự cạnh tranh gay gắt với văn hóa dân tộc. Chẳng hạn, trong lĩnh vực giải trí, giới trẻ đang bị cuốn theo những trào lưu du nhập từ nước ngoài, thậm chí vấn đề đã lên đến mức báo động. Sức trẻ cộng với tâm lý thích khám phá những điều mới lạ, bắt kịp các trào lưu đang thịnh hành trên thế giới, như: thời trang Kawaii (Nhật Bản), thời trang Hàn Quốc và các trào lưu giải trí phương Tây, ảnh hưởng đến tư duy, thị hiếu và lối sống của giới trẻ.
Thứ năm, tình trạng thương mại hóa văn hóa truyền thống diễn ra tràn lan. Nhiều lễ hội, nghi lễ truyền thống bị biến thành các sự kiện thương mại hóa, làm mất đi tính chất nguyên bản và ý nghĩa cộng đồng. Tại một số làng nghề truyền thống, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ không còn giữ được nét độc đáo vốn có, mà chuyển sang sản xuất đại trà nhằm phục vụ nhu cầu thị trường. Điều này không chỉ làm suy giảm giá trị văn hóa mà còn ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh văn hóa Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
Trước những thách thức nghiêm trọng đó, nếu không có các giải pháp mạnh mẽ và toàn diện, văn hóa truyền thống sẽ tiếp tục bị thu hẹp không gian sống, làm suy yếu nền tảng bản sắc và sức mạnh nội sinh của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng.
Trong bối cảnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, văn hóa truyền thống không thể chỉ tồn tại dưới dạng di sản được lưu giữ trong bảo tàng hay sách vở, mà cần được đưa vào đời sống thường nhật để tiếp tục phát huy vai trò trong thực tiễn. Những biểu hiện đặc trưng của văn hóa nghệ thuật dân gian, hay lễ hội truyền thống cần được sáng tạo, điều chỉnh về hình thức cho phù hợp với nhu cầu và thẩm mỹ của xã hội hiện đại, nhưng vẫn phải bảo tồn được tinh thần nguyên bản và chiều sâu giá trị văn hóa.
Đây là một cách hiệu quả để duy trì sức sống của văn hóa truyền thống trong cuộc sống hiện đại. Tuy vậy, sự thích ứng với đời sống đương đại không phải lúc nào cũng khả thi đối với mọi thành tố văn hóa truyền thống.[A1] Nhiều lễ hội và phong tục, khi được hiện đại hóa, đã mất đi ý nghĩa cốt lõi, trở thành các hoạt động trình diễn thương mại, không còn gắn bó với đời sống dân gian.
Bên cạnh đó, vấn đề bảo đảm sự cân bằng giữa bảo tồn văn hóa và phát triển kinh tế cũng là một vấn đề nan giải. Việc khai thác văn hóa truyền thống để phát triển du lịch là một hướng đi quan trọng, mang lại nguồn thu đáng kể cho các địa phương. Tuy nhiên, nếu không được quản lý chặt chẽ, sự thương mại hóa quá mức có thể làm giảm giá trị văn hóa. “Cần duy trì sự cân bằng giữa khai thác và bảo tồn di sản, tránh để các giá trị văn hóa bị xói mòn bởi áp lực kinh tế”(10).
Việc giáo dục văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ đang gặp nhiều thách thức. Các trường học vẫn chưa coi trọng việc lồng ghép nội dung văn hóa truyền thống vào chương trình giảng dạy, điều này tất yếu dẫn đến nguy cơ thế hệ trẻ ngày càng xa rời các giá trị văn hóa truyền thống. Cần có các giải pháp đẩy mạnh giáo dục văn hóa hiệu quả, ngăn chặn nguy cơ mai một và thất truyền các giá trị văn hóa truyền thống.
Để giữ được bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng với thế giới, cần chú trọng phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng và xã hội trong việc tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng một môi trường văn hóa lành mạnh. Đây không chỉ là nền tảng để định hướng giá trị mà còn là động lực để phát huy những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam, như tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, ý chí tự cường và lòng nhân ái. Điều này hướng đến việc xây dựng đời sống văn hóa đa dạng, văn minh, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế; để văn hóa không chỉ là một tài sản tinh thần mà còn là nguồn lực chiến lược để phát triển bền vững. “Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần yêu nước, tự hào, ý chí tự cường và lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội; xây dựng môi trường và đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, hội nhập quốc tế”(11).
2.3. Giải pháp bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống trong kỷ nguyên phát triển mới
Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về văn hóa truyền thống
Giáo dục là nền tảng quan trọng để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Cần tích hợp nội dung về văn hóa truyền thống vào chương trình các cấp học từ tiểu học đến đại học, lồng ghép trong các môn lịch sử, văn học và giáo dục công dân. Đồng thời, tăng cường đầu tư thư viện, phòng trưng bày di sản và tài liệu giảng dạy về văn hóa truyền thống.
Các địa phương cần thường xuyên tổ chức hoạt động quảng bá như tham quan bảo tàng, làng nghề, biểu diễn nghệ thuật dân gian; phát động các phong trào như “Ngày hội văn hóa dân gian” để thu hút sự tham gia của học sinh và cộng đồng. Có chính sách khuyến khích các nghệ nhân tham gia giảng dạy và truyền nghề cho thế hệ trẻ.
Cùng với lồng ghép nội dung văn hóa vào giảng dạy, các trường học thành lập câu lạc bộ văn hóa dân gian tại các trường, khuyến khích học sinh sáng tạo sản phẩm văn hóa như bài viết, video về di sản. Các chiến dịch truyền thông trực tuyến cũng cần được tổ chức thường xuyên để lan tỏa giá trị văn hóa.
Hai là, ứng dụng công nghệ hiện đại
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số đang mở ra những cơ hội lớn để bảo tồn và quảng bá văn hóa truyền thống một cách sáng tạo và hiệu quả. Việc ứng dụng công nghệ số vào công tác bảo tồn không chỉ giúp lưu trữ các giá trị văn hóa mà còn làm mới cách tiếp cận, khiến di sản trở nên hấp dẫn hơn với thế hệ trẻ.
Một trong những giải pháp quan trọng là số hóa các di sản văn hóa. Các tài liệu, hình ảnh và video liên quan đến lễ hội, phong tục và nghệ thuật dân gian cần được lưu trữ trong các cơ sở dữ liệu kỹ thuật số. Điều này giúp bảo vệ giá trị văn hóa trước sự tàn phá của thời gian, đồng thời tạo điều kiện để công chúng dễ dàng tiếp cận di sản qua internet. Nhiều bảo tàng đã ứng dụng công nghệ thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR) để tạo ra các tour tham quan ảo, giúp khách tham quan trải nghiệm các di sản văn hóa từ xa. Đây là cách hiệu quả để tiếp cận giới trẻ - nhóm đối tượng thạo công nghệ.
Mạng xã hội cũng là một công cụ hiệu quả để quảng bá văn hóa truyền thống. Các chiến dịch truyền thông như “Tự hào áo dài Việt Nam” hay “Khám phá di sản văn hóa Việt Nam” trên các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok đã thu hút sự quan tâm của đông đảo giới trẻ. Ngoài ra, các ứng dụng di động cung cấp thông tin về các di sản văn hóa, hướng dẫn tham quan các điểm đến, hoặc tái hiện các nghi lễ, lễ hội qua công nghệ AR/VR cũng là một hướng phát triển cần được đẩy mạnh.
Ba là, phát triển du lịch văn hóa
Du lịch văn hóa là cầu nối quan trọng để bảo tồn và quảng bá văn hóa truyền thống ra thế giới. Các sản phẩm du lịch như tour tham quan làng nghề, trải nghiệm lễ hội, hoặc khám phá ẩm thực cần được phát triển bền vững, kết hợp trải nghiệm và giáo dục, như học làm gốm ở Bát Tràng, thử dệt lụa tại Vạn Phúc, hoặc tham gia nghi lễ truyền thống ở Hội An. Tuy nhiên, cần tránh thương mại hóa quá mức và tình trạng quá tải để bảo đảm tính bền vững và giữ gìn giá trị di sản.
Nhà nước cần ban hành chiến lược quốc gia về du lịch văn hóa, hỗ trợ tài chính và pháp lý, quảng bá văn hóa Việt Nam, đầu tư phát triển hạ tầng tại các điểm du lịch. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tăng cường quản lý, quy hoạch sản phẩm du lịch văn hóa, triển khai các chiến dịch quảng bá, và đào tạo nhân lực chất lượng cao để nâng cao trải nghiệm du khách. Các địa phương cần phát triển sản phẩm du lịch đặc trưng, cải thiện hạ tầng dịch vụ, kiểm soát lượng khách và bảo vệ di sản văn hóa.
Bốn là, hỗ trợ nghệ nhân và cộng đồng văn hóa
Nghệ nhân có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và truyền dạy các giá trị văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, nhiều nghệ nhân đang gặp khó khăn trong việc duy trì nghề do thiếu sự hỗ trợ về tài chính và cơ hội truyền nghề.
Nhà nước cần xây dựng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho các nghệ nhân, đồng thời công nhận danh hiệu “nghệ nhân nhân dân” và “nghệ nhân ưu tú” để tôn vinh và động viên họ. Các chương trình đào tạo, truyền nghề tại các làng nghề truyền thống cần được tổ chức thường xuyên, với nội dung phù hợp, thiết thực.
Cùng với đó, các cộng đồng văn hóa cần được trao quyền và hỗ trợ để tham gia tích cực vào công tác bảo tồn. Việc khuyến khích các tổ chức cộng đồng, câu lạc bộ văn hóa đóng vai trò như “cầu nối” giữa di sản và thế hệ trẻ là điều cần thiết. Nhà nước và địa phương cần tổ chức các hội thi, giải thưởng để vinh danh các cá nhân và tổ chức có đóng góp lớn trong việc gìn giữ di sản.
Năm là, thúc đẩy hợp tác quốc tế về văn hóa
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế là giải pháp quan trọng để quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới và học hỏi kinh nghiệm bảo tồn di sản từ các quốc gia. Các chương trình trao đổi văn hóa, tổ chức hội nghị quốc tế, triển lãm và lễ hội văn hóa Việt Nam tại nước ngoài sẽ giúp nâng cao vị thế của Việt Nam và khẳng định bản sắc văn hóa độc đáo.
Nhà nước cần xây dựng chiến lược hợp tác văn hóa toàn diện, tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế như UNESCO, ASEAN và các diễn đàn văn hóa toàn cầu. Việc ký kết thỏa thuận hợp tác, tổ chức các sự kiện văn hóa quốc tế và bảo đảm nguồn lực tài chính, nhân lực là các ưu tiên hàng đầu để thúc đẩy giao lưu văn hóa.
Các địa phương cần chủ động tổ chức các sự kiện văn hóa mang tính đặc trưng vùng miền, kết nối với các đối tác quốc tế và chuẩn bị hạ tầng để đón tiếp các đoàn giao lưu. Đồng thời, cần tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế để quảng bá và bảo vệ di sản văn hóa địa phương.
Hợp tác với UNESCO và các tổ chức quốc tế sẽ mang lại sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính, nâng cao năng lực quản lý di sản. Việc phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, địa phương và các đối tác quốc tế sẽ giúp được văn hóa Việt Nam vào dòng chảy văn hóa toàn cầu, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc bền vững.
Sáu là, xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ
Trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ là nền tảng để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời gắn kết văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Trung ương cần định hướng chiến lược quốc gia, ban hành khung pháp lý rõ ràng, phân bổ ngân sách cho các dự án bảo tồn lớn như số hóa di sản, xây dựng trung tâm bảo tồn và cơ sở hạ tầng văn hóa. Đồng thời, cần quản lý chặt chẽ việc khai thác các giá trị của di sản văn hóa trong các hoạt động kinh tế, bảo đảm không làm mất đi giá trị cốt lõi của di sản.
Các địa phương cần thực hiện các dự án bảo tồn phù hợp thực tiễn, trao quyền cho cộng đồng địa phương trong việc gìn giữ làng nghề, lễ hội, và phát triển du lịch văn hóa bền vững. Ngoài ra, cần tích hợp văn hóa truyền thống vào các dự án CNH, HĐH như phát triển cụm công nghiệp thủ công mỹ nghệ hoặc xây dựng các tuyến du lịch thông minh.
Các đoàn thể như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ cần đẩy mạnh tuyên truyền, phát động phong trào bảo tồn văn hóa và tổ chức các sự kiện văn hóa để thu hút sự tham gia của cộng đồng. Việc phối hợp giữa Trung ương, địa phương và các đoàn thể sẽ tạo nên hệ thống thiết chế toàn diện, bảo đảm vừa bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống, vừa thúc đẩy phát triển bền vững trong thời kỳ CNH, HĐH.
3. Kết luận
Văn hóa truyền thống Việt Nam là di sản quý báu, đóng vai trò quan trọng trong việc định hình bản sắc dân tộc và phát triển đất nước. Tuy nhiên, trước những thách thức như sự mai một giá trị, thờ ơ của thế hệ trẻ, ảnh hưởng từ văn hóa ngoại lai và thương mại hóa, việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống trở nên cấp thiết. Các giải pháp như tăng cường giáo dục, ứng dụng công nghệ, phát triển du lịch văn hóa bền vững, hỗ trợ nghệ nhân và xây dựng chính sách đồng bộ cần được triển khai để văn hóa truyền thống không chỉ được lưu giữ mà còn thực sự sống trong đời sống hiện đại, góp phần gìn giữ và phát huy văn hóa truyền thống, để văn hóa mãi là sức mạnh nội sinh của đất nước, khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
_________________
Ngày nhận bài: 9-4-2024; Ngày bình duyệt: 29-5-2025; Ngày duyệt đăng: 4-6-2025.
Email tác giả:khuepd@hau.edu.vn
(1), (2), (3) Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2024, tr.31-32, 20, 13.
(4) Minh Quân: Tà áo dài trong đời sống đương đại, https://daidoanket.vn, ngày đăng 20-10-2023.
(5) Thanh Giang: Phát huy giá trị di sản văn hóa Cố đô Huế để phát triển bền vững, https://dantocmiennui.vn, ngày đăng 18-6-2023.
(6) VietnamPlus: Việt Nam nằm trong danh sách những nền ẩm thực hàng đầu thế giới, https://www.vietnamplus.vn, ngày đăng 21-10-2022.
(7) Nguyễn Hùng Vĩ: Giá trị lịch sử, truyền thống văn hóa của lễ hội, https://www.qdnd.vn, ngày đăng 3-3-2015.
(8) Dương Thị Hồng Nhung: Khai thác nét đẹp văn hóa dân tộc thông qua các lễ hội truyền thống Việt Nam để phát triển du lịch, https://dangcongsan.vn, ngày đăng 22-11-2021.
(9 Hội đồng Anh: Báo cáo: nghiên cứu Thế hệ Trẻ Việt Nam, Hội đồng Anh Việt Nam, 2020, tr.20-21.
(10) UNESCO: Capacity Building in Designing, Implementing and Evaluating Intangible Cultural Heritage Projects in Viet Nam, 2013, p.1-3.
(11) ĐCSVN: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.221-222.