Thực tiễn

Thể chế phát triển trong kỷ nguyên phát triển mới của Việt Nam

12/11/2025 15:59

(LLCT) - Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới với những yêu cầu cao về phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển trở thành yêu cầu cấp thiết để theo kịp với yêu cầu của sự phát triển. Bài viết tập trung làm rõ mục tiêu và đặc trưng trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, đồng thời phân tích những yêu cầu đặt ra đối với thể chế phát triển. Trên cơ sở đánh giá thực trạng thể chế phát triển ở Việt Nam hiện nay, bài viết đề xuất một số giải pháp có tính nền tảng nhằm nâng cao chất lượng thể chế, bảo đảm tính hiện đại, minh bạch và hiệu quả, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển bền vững và nâng cao vị thế quốc gia.

TS ĐINH VĂN THỤY
Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

ThS TRẦN THỊ HUYỀN TRANG
Học viện Chính trị khu vực I

(Ảnh: bienphong.com.vn)
Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới với những yêu cầu cao về phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế sâu rộng_Ảnh: ttdn.vn

1. Mở đầu

Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, với kinh tế tăng trưởng nhanh, văn hóa - xã hội phát triển toàn diện, mọi người dân đều được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện bản thân và cống hiến cho sự nghiệp phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh. Để hiện thực hóa các mục tiêu lớn này, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng được thể chế phát triển phù hợp, hiệu quả và bền vững.

Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, kỷ nguyên mới “là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”(1).

Như vậy, mục tiêu trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc là “dân giàu, nước mạnh, trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu”. Trong đó, mục tiêu kinh tế được đặt ra là một nước theo định hướng XHCN với công nghiệp tiên tiến, hiện đại, kinh tế phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế đạt hai con số trong nhiều năm liên tiếp, tức là tăng trưởng ít nhất đạt 10%/năm trong nhiều năm (hiện nay mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta đặt ra từ 6 - 7%/năm(2)). Về mục tiêu xã hội tiến tới là xã hội phồn vinh, mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển một cách toàn diện, được tạo điều kiện làm giàu chính đáng để vừa phát triển bản thân và gia đình vừa đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.

Để đạt các mục tiêu đó cần phải có thể chế phát triển với những đặc điểm mới phù hợp với yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ 10%/năm trở lên, bảo đảm vừa phát triển đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của kinh tế - xã hội, văn hóa, vừa phát triển nhanh và bền vững nhằm hiện thực hóa các đặc trưng, mục tiêu của kỷ nguyên phát triển mới.

2. Nội dung

2.1. Kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc Việt Nam và yêu cầu đặt ra đối với thể chế phát triển

Theo Từ điển Luật học thì Thể chế là những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo. Hệ thống các định chế hợp thành một tổng thể các chế độ nhà nước, hình thức tổ chức nhà nước, các chế độ về lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thuật ngữ này cũng thường được dùng để chỉ hệ thống các chế định hợp thành chế độ chính trị, là hình thức thể hiện các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng trong xã hội, bao gồm các đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức xã hội khác và vai trò, ảnh hưởng lẫn nhau của các thiết chế này trong hệ thống chính trị(3). Theo đó có thể hiểu thể chế đó là hệ thống quy phạm, quy định, luật lệ, chuẩn mực của chế độ xã hội do cơ quan có thẩm quyền ban hành buộc mọi tổ chức, cá nhân, phải tuân thủ nhằm hướng tới sự ổn định và phát triển triển kinh tế - xã hội. Thể chế là sản phẩm của một chế độ xã hội, thể hiện bản chất và chức năng của hệ thống chính trị trong chế độ xã hội đó. Thể chế của mỗi quốc gia, dân tộc có vai trò định hướng sự phát triển quốc gia, dân tộc đó theo mục tiêu của giai cấp lãnh đạo quốc gia.

Căn cứ theo lĩnh vực của đời sống xã hội thì thể chế có thể phân theo các lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, xã hội… Căn cứ theo không gian có thể phân chia thành thể chế chung cho quốc gia và thể chế vùng, thể chế cho khu vực đặc thù... Tất cả các thể chế này đều nhằm hướng tới mục tiêu bảo đảm sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, tất cả các thể chế lĩnh vực, thể chế vùng, khu vực đều liên quan mật thiết với nhau và đều tạo thành thể chế phát triển của một đất nước, quốc gia, dân tộc.

Thể chế phát triển được xác định trong kỷ nguyên mới là tổng hợp thể chế lĩnh vực và thể chế vùng, miền, khu vực, để đáp ứng yêu cầu phát triển, điều này đòi hỏi thể chế phát triển ở Việt Nam có những đặc điểm sau:

Một là, tính đồng bộ, thống nhất, nhất quán. Thể chế phát triển ở Việt Nam gồm hệ thống quy định, quy phạm pháp luật bảo đảm sự ổn định và phát triển phải nhất quán, thống nhất, đồng bộ với chủ trương, đường lối phát triển của Đảng trong kỷ nguyên mới. Tuyệt đối không được để tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật và với chủ trương, đường lối phát triển đất nước của Đảng.

Hai là, tính linh hoạt. Trước và trong kỷ nguyên phát triển mới, Việt Nam sẽ có nhiều thay đổi nhanh chóng, do đó, thể chế phát triển phải có tính linh hoạt, dễ dàng điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi dựa trên những nguyên tắc cố định, rõ ràng nhằm phù hợp với sự thay đổi của thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội.

Ba là, tính hiệu quả. Thể chế phát triển phải đem lại hiệu quả thiết thực trong thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Tính hiệu quả thể hiện ở những điểm sau: i) kiến tạo môi trường thuận lợi để khơi dậy khát vọng vươn lên phát triển của mọi người dân, cộng đồng, doanh nghiệp; ii) quản lý và khơi dậy mọi nguồn lực xã hội, mọi tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, qua đó thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ở mức hai con số; iii) hạn chế, khắc phục những yếu kém, những lực cản, những nhân tố chống phá quá trình phát triển trong kỷ nguyên mới.

2.2. Thực trạng thể chế ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện thể chế phát triển, đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới

Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của thể chế đối với phát triển đất nước, từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện từ Đại hội VI (năm 1986), Đảng đã đặc biệt quan tâm đến xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển đất nước và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: “Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản; vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được chú trọng trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và xã hội”(4); “Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”(5). Trong các kỳ Đại hội gần đây, vấn đề hoàn thiện thể chế phát triển được Đảng coi là một trong những đột phát chiến lược, nhờ đó thể chế phát triển ngày càng hoàn thiện, theo đó kinh tế - xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, thể chế phát triển ở Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thể chế về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Điều này đã được chỉ ra tại Đại hội lần thứ XII và XIII của Đảng: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển”(6); “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập”(7).

Đồng thời, thể chế các lĩnh vực cụ thể khác cũng còn nhiều hạn chế như: “thể chế quản lý xã hội còn nhiều tồn tại; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội... ở một số nơi chậm được khắc phục, gây bức xúc trong dư luận... Chính sách tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội có mặt còn hạn chế; thụ hưởng của người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hòa”(8); “Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ còn hạn chế, thiếu thể chế về tài chính, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao”(9).

Không chỉ thể chế phát triển lĩnh vực còn hạn chế, mà thể chế phát triển vùng cũng còn nhiều hạn chế: “Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hoá bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo”(10); “Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển”(11); “chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài”(12).

Biểu hiện của hạn chế hoàn thiện trong thể chế phát triển là: “Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước”(13). Chất lượng xây dựng pháp luật chưa cao, còn tình trạng chưa thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng: “Một số chủ trương, định hướng của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ. Tư duy xây dựng pháp luật trong một số lĩnh vực còn thiên về quản lý. Chất lượng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn”(14). Nguyên nhân chủ quan của những hạn chế của thể chế phát triển là: “Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế”(15).

Tổng Bí thư Tô Lâm đã thẳng thắn chỉ rõ hạn chế của thể chế chính là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn” trong phát triển đất nước hiện nay(16). Những hạn chế của thể chế phát triển đang cản trở quá trình phát triển bền vững của đất nước. Do đó, việc hoàn thiện thể chế nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo mục tiêu của kỷ nguyên phát triển mới mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra là vấn đề có tính cấp bách.

2.3. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện thể chế phát triển

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật giúp bảo đảm sự thống nhất giữa chủ trương, đường lối của Đảng với các quy định của pháp luật. Đồng thời, sớm thể chế hóa các chủ trương, đường lối, tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển trong kỷ nguyên mới. Đặc biệt là thể chế hóa các Kết luận số 126-KL/TW ngày 14-02-2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025; Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04-5-2025 về phát triển kinh tế tư nhân...

Song song với đó, khẩn trương rà soát các quy định, quy phạm pháp luật, các mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật, chính sách để chỉnh sửa kịp thời, nhằm bảo đảm sự đồng bộ và thống nhất trong hệ thống chính sách, pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, các vùng, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội nhằm xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển

Quốc hội cần phát huy vai trò, chức năng trong xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, Quốc hội cần bảo đảm các quy định liên quan đến ổn định, phát triển lĩnh vực, vùng cụ thể và hướng tới mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao ở mức hai con số và vẫn bảo đảm phát triển bền vững.

Ngoài ra, phát huy vai trò của Quốc hội trong giám sát việc thực thi luật và nghị quyết của Quốc hội bằng cách: đổi mới phương thức thảo luận, cho ý kiến về các dự án luật, nghị quyết liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả tại các phiên thảo luận; tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu quốc hội để kịp thời đề xuất các cơ quan liên quan sửa đổi, bổ sung những quy phạm liên quan đến ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.

Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30-4-2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, đó là: “Xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn, “đứng trên mảnh đất thực tiễn của Việt Nam”, tiếp thu có chọn lọc giá trị tinh hoa của nhân loại, bảo đảm tính hệ thống, nắm bắt mọi cơ hội, mở đường, khơi thông mọi nguồn lực, đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ cho phát triển, tạo dư địa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế “hai con số”, nâng cao đời sống của Nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước”.

Ba là, nâng cao năng lực xây dựng các văn bản dưới luật của Chính phủ và các cơ quan ngang bộ nhằm hướng dẫn thi hành, quy định chi tiết các luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành một cách kịp thời, thống nhất, bảo đảm đồng bộ thể chế phát triển

Thực tế cho thấy, tình trạng luật đã ban hành nhưng phải chờ nghị định của Chính phủ và thông tư hướng dẫn của các bộ, cơ quan ngang bộ vẫn chưa được khắc phục. Để khắc phục triệt để tình trạng này, Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ cần tích cực hơn trong việc ban hành nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành các điều, khoản trong luật nói chung, luật liên quan đến ổn định và phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu của kỷ nguyên mới nói riêng. Cần điều chỉnh quy trình ban hành theo hướng khi trình dự án luật thì trình luôn cả dự thảo văn bản hướng dẫn thi hành (dự thảo nghị định, thông tư hướng dẫn). Có như vậy mới bảo đảm việc áp dụng, thi hành luật một cách kịp thời, khắc phục tình trạng thiếu sự thống nhất giữa luật và văn bản dưới luật, góp phần vào việc triển khai thực hiện các quy định trong thực tiễn một cách kịp thời, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới.

Bốn là, bố trí đầy đủ nguồn lực để tổ chức thực thi thể chế phát triển một cách kip thời, đồng bộ

Thể chế phát triển chỉ phát huy giá trị khi được tổ chức thực hiện một cách kịp thời và hiệu quả trong thực tiễn nhằm bảo đảm ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, đem lại giá trị thiết thực cho nhân dân, cho dân tộc. Chính vì vậy, việc bố trí đầy đủ nguồn lực thực hiện (nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất…) là hết sức quan trọng, đó là điều kiện, tiền đề để thể chế phát triển phát huy hiệu quả trong thực tiễn.

Việc tổ chức thực hiện thể chế phát triển hiệu quả đòi hỏi không chỉ là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước mà còn cần sự chung tay của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp trong xã hội. Do đó, trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện thể chế phát triển cần huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp. Đồng thời, cũng có chế tài để xử lý những tổ chức, cá nhân cố tình cản trở, gây khó khăn quá trình Đảng, Nhà nước và nhân dân xây dựng, hoàn thiện, triển khai thực hiện thể chế phát triển trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.

3. Kết luận

Hoàn thiện thể chế phát triển nhằm đáp ứng được yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam là vấn đề mang tính cấp bách. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần triển khai đồng bộ các giải pháp căn cơ như: tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc kiến tạo, điều hành và hoàn thiện thể chế phát triển một cách đồng bộ; chuẩn bị đầy đủ các nguồn lực để triển khai thể chế phát triển hiệu quả.

_________________

Ngày nhận bài:21-5-2025; Ngày bình duyệt:25-6-2025; Ngày duyệt đăng: 22-10-2025.

Email tác giả: dinhvanthuy@gmail.com

(1) Tô Lâm: Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 01-11-2024.

(2) Kinh tế năm 2024 tăng trưởng khá, GDP đặt 7,09%, https://vneconomy.vn, ngày 30-01-2025.

(3) Viện Khoa học pháp lý: Từ điển luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.703-704.

(4) ĐCSVN: Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

(5), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (15) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 59-60, 80, 85-86, 83, 80, 80, 83, 89-90, 80.

(6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà nội, 2016, tr.60 .

(14) ĐCSVN: Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30-4-2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

(16) Thành An: “Điểm nghẽn” của “điểm nghẽn” do ai?, https://www.qdnd.vn, ngày 03-11-2024.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Thể chế phát triển trong kỷ nguyên phát triển mới của Việt Nam
    POWERED BY