Thực tiễn

Dám nghĩ, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trong đánh giá cán bộ

Nguyễn Thị Thùy Linh 13/08/2025 17:14

(LLCT) - Đánh giá cán bộ là một khâu quan trọng trong công tác cán bộ, do đó luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm và có nhiều đổi mới, đã đạt được nhiều tiến bộ, góp phần động viên, khuyến khích và xây dựng đội ngũ cán bộ, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, công tác này vẫn còn nhiều yếu kém. Bài viết phân tích thực trạng công tác này, rút ra nguyên nhân chủ quan từ các chủ thể và xuất phát từ tinh thần dám nghĩ, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp chung để đưa ra giải pháp góp phần khắc phục hạn chế, yếu kém để công tác đánh giá cán bộ ngày càng thực chất, hiệu quả.

ThS PHẠM THỊ VĨNH HÀ
Tạp chí Lý luận chính trị,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Hà Nội đổi mới, chú trọng công tác đánh giá cán bộ- Ảnh 1.
Đánh giá cán bộ là công việc hàng đầu rất quan trọng của công tác cán bộ_Ảnh minh họa: VGP

1. Mở đầu

Nhận xét, đánh giá cán bộ là công việc hàng đầu rất quan trọng của công tác cán bộ, được thực hiện bởi các chủ thể: bản thân cán bộ, tập thể nơi cán bộ công tác, cấp ủy nơi cán bộ công tác và cư trú, cấp trên và cấp dưới của cán bộ, các tổ chức mà cán bộ đó là thành viên. Ngoài ra, nếu cán bộ đó ứng cử vào các cơ quan dân cử còn có ý kiến nhận xét của quần chúng nhân dân. Như vậy, việc nhận xét, đánh giá cán bộ được tiến hành bởi một quy trình toàn diện, nhiều chiều, nhiều chủ thể tham gia. Công tác này thực hiện hiệu quả, có chất lượng sẽ là cơ sở quan trọng để xem xét bố trí, sử dụng cán bộ một cách hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ có tâm, có tầm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; khuyến khích cán bộ phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, hăng say phấn đấu; là yếu tố quan trọng động viên, khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp chung; đồng thời, kích thích sự phấn khởi của tập thể, tăng cường đoàn kết nội bộ. Nhận xét, đánh giá sai sẽ có những hậu quả không tốt cho Đảng và cho bản thân cán bộ, đó là: bản thân người cán bộ chưa đạt được các tiêu chí, tiêu chuẩn, tín nhiệm, không đủ năng lực để đảm đương nhiệm vụ lại được đánh giá là “tốt” thì cán bộ đó sinh ra chủ quan, tự cao, tự đại, “quan cách mạng”, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực. Ngược lại, người cán bộ có năng lực tốt, hoàn thành tốt nhiệm vụ, có tinh thần trách nhiệm cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nhưng lại được nhận xét, đánh giá không khách quan, không đúng với mức độ cống hiến của họ thì cán bộ đó trở nên tự ti, nhụt chí phấn đấu, làm hại cho họ và cũng thiệt cho Đảng, ảnh hưởng đến niềm tin của tập thể và có thể gây ra những phức tạp trong quan hệ nội bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng.

Tiêu chuẩn, tiêu chí, quy trình, phương pháp đánh giá là các yếu tố “động” luôn được bổ sung, hoàn thiện phù hợp từng thời kỳ. Chất lượng, hiệu quả đánh giá cán bộ phụ thuộc rất nhiều vào các chủ thể tham gia đánh giá. Cùng tiêu chuẩn, tiêu chí, quy trình, phương pháp nhưng từng nơi, từng lúc và từng đối tượng lại có kết quả khác nhau. Nơi nào, đối tượng nào các chủ thể thực hiện trung thực, khách quan, khoa học và có trách nhiệm vì lợi ích chung thì sẽ có kết quả tích cực. Ngược lại, sẽ có kết quả tiêu cực. Do vậy, bên cạnh việc hoàn thiện tiêu chuẩn, tiêu chí, quy trình, phương pháp thì việc phát huy tinh thần dám nghĩ, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trong công tác đánh giá cán bộ sẽ làm cho công tác này có chất lượng, hiệu quả thực chất, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

2. Nội dung

2.1. Thực trạng công tác đánh giá cán bộ

Với vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của khâu nhận xét, đánh giá cán bộ trong công tác cán bộ, đồng thời để từng bước khắc phục tình trạng “Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng vẫn chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục”(1) và “Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, mặc dù đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn còn không ít trường hợp chưa phản ánh đúng thực chất”(2), các nhiệm kỳ gần đây, nhất là nhiệm kỳ XII và XIII, Bộ Chính trị đã ban hành, sửa đổi, bổ sung, từng bước hoàn thiện các quy định liên quan công tác nhận xét, đánh giá cán bộ; Quốc hội, Chính phủ theo chức năng, thẩm quyền cũng đã ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản luật và nghị định về cán bộ, công chức.

Các văn bản đó quy định rõ tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí làm căn cứ nhận xét, đánh giá và phương pháp, quy trình đánh giá hướng tới hiệu quả thực chất, đó là: toàn diện, trên nhiều khía cạnh, từ nhiều góc nhìn với cách đánh giá biện chứng, mang tính lịch sử cụ thể. Tinh thần đó phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh là “Xem xét cán bộ, không chỉ xem ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ”(3), “Trước khi cất nhắc cán bộ, phải nhận xét rõ ràng. Chẳng những xem xét công tác của họ, mà còn phải xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng những xem xét cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không. Chẳng những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối với người khác thế nào. Ta nhận họ tốt, còn phải xét số nhiều đồng chí có nhận họ tốt hay không. Phải biết ưu điểm của họ, mà cũng phải biết khuyết điểm của họ, không nên chỉ xem công việc của họ trong một lúc, mà phải xem cả công việc của họ từ trước đến nay”(4).

Đặc biệt, đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, quy định đánh giá ngày càng hướng tới việc phát huy vai trò cấp dưới và của cùng cấp có cái nhìn đúng, toàn diện, cụ thể về cán bộ lãnh đạo, quản lý; từng bước khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và “sợ” người lãnh đạo trực tiếp của mình; khắc phục tình trạng “nịnh” cấp trên.

Trên tinh thần đó, công tác nhận xét, đánh giá cán bộ đã bám sát các tiêu chuẩn, tiêu chí và thực hiện theo quy trình dân chủ, chặt chẽ hơn; nội dung, quy trình, phương pháp đánh giá từng bước được đổi mới, bảo đảm dân chủ, khách quan hơn; bước đầu khắc phục được một số hạn chế trong đánh giá cán bộ như: chủ quan, hình thức, xuôi chiều, cảm tính...; đã tạo được một số chuyển biến tích cực theo hướng cụ thể, thực chất, góp phần quan trọng vào việc xây dựng “đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập”(5). Qua đó, đã kịp thời phát hiện những cán bộ có triển vọng để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn quy hoạch cũng như sắp xếp, bố trí lại những cán bộ năng lực hạn chế, chưa hoàn thành nhiệm vụ hoặc phiếu tín nhiệm đạt thấp.

Bên cạnh những ưu điểm đó, công tác nhận xét, đánh giá hiện nay còn nhiều bất cập, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII chỉ rõ: “Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến”(6). Các quy định về đánh giá cán bộ của các cấp, các ngành, các tổ chức trong hệ thống chính trị chưa thực sự đồng bộ, thống nhất, liên thông; nhiều tiêu chuẩn, tiêu chí còn chung chung, thiếu cụ thể, không sát thực tế, mang nhiều định tính, thiếu định lượng; chưa thực sự lấy hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu; chưa có sự đánh giá đa chiều, liên tục cả quá trình; các chuẩn mực về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ còn bị xem nhẹ trong nhận xét, đánh giá; trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và cá nhân người đứng đầu trong nhận xét, đánh giá đối với cán bộ dưới quyền trực tiếp chưa được xác định rõ ràng.

Đặc biệt, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, không dám nhìn thẳng vào sự thật, “dĩ hòa vi quý” còn diễn ra khá phổ biến ở các cấp, các ngành, do đó, chưa phản ánh đúng phẩm chất, năng lực, uy tín của cán bộ, nhất là khi quy hoạch, bổ nhiệm hoặc giới thiệu ứng cử; không ít trường hợp cán bộ được đánh giá tốt, được bố trí vào các chức vụ cao hơn, nhưng một thời gian sau, những khuyết điểm “vốn có” trước đây “bị lộ” phải xử lý kỷ luật về đảng, kỷ luật hành chính nhà nước, thậm chí nhiều trường hợp phải xử lý hình sự, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước.

Những hạn chế đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến “Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm”(7).

Những hạn chế, yếu kém đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ chủ quan của các chủ thể, đó là: thiếu tự giác trong nhận thức, quán triệt và thực hiện các quy định của Đảng và Nhà nước về kiểm điểm, nhận xét, đánh giá cán bộ. Có không ít cấp ủy, tổ chức đảng coi công tác kiểm điểm, đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên chỉ là công việc định kỳ, “đến hẹn lại lên”, nên thiếu nghiêm túc trong tổ chức thực hiện, làm qua loa, chiếu lệ, do đó có nơi mặc dù có khuyết điểm, được gợi ý kiểm điểm nhưng 100% ủy viên ban thường vụ và ban lãnh đạo vẫn được xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiều cán bộ có khuyết điểm nhưng “giấu kín” và được “che giấu” nên vẫn liên tục được xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được quy hoạch, bổ nhiệm chức vụ cao hơn cho đến khi “bị lộ”.

Bên cạnh đó, không ít chủ thể tham gia nhận xét, đánh giá cán bộ còn thiếu tính trung thực, thiếu khách quan, thiếu trách nhiệm trước lợi ích chung và sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, mặc dù được thực hiện đầy đủ quy trình, nhưng do mục đích, yêu cầu không được quán triệt đầy đủ; bố trí thời gian tổ chức thực hiện hạn hẹp (một buổi, một ngày cho kiểm điểm, xếp loại hoặc một buổi, thậm chí vài giờ cho việc thực hiện 5 bước của công tác cán bộ); bản thân cán bộ không trung thực, tự giác nêu khuyết điểm của mình; người biết khuyết điểm của đồng chí mình, nhưng khuyết điểm đó lại dính dáng đến mình nên cũng không dám nói; người biết, tuy không liên quan đến mình nhưng có tư tưởng thờ ơ, bao che hoặc sợ bị trù dập cũng không dám nói; tập thể lãnh đạo “dĩ hòa vi quý” nên không truy tìm kỹ, xuề xòa, “lợi anh, lợi tôi”. Do đó, những vi phạm khuyết điểm, thậm chí là vi phạm pháp luật không được phát hiện trong quá trình kiểm điểm, nhận xét, đánh giá; chỉ sau khi các cơ quan thanh tra, kiểm tra, điều tra vào cuộc hoặc có đơn thư tố cáo mới “bị lộ” và mới được phanh phui, xử lý. Đó là “nỗi đau”, là “tổn thất” không chỉ là của công tác cán bộ mà là danh dự, uy tín của Đảng trước nhân dân.

2.2. Giải pháp phát huy tinh thần dám nghĩ, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp chung trong nhận xét, đánh giá cán bộ

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 Hội nghị Trung ương 7 khóa XII “về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đã xác định nhiệm vụ, giải pháp đột phá là: “Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị”(8).

Để nhiệm vụ, giải pháp đó thực sự phát huy hiệu quả trong thực tế, làm cho kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ phản ánh đúng phẩm chất cán bộ, đòi hỏi các chủ thể tham gia nhận xét, đánh giá phải có dũng khí, suy nghĩ thấu đáo, nhìn thẳng vào sự thật, dám nói đúng sự thật, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp chung. Để làm được điều đó, các chủ thể cần:

Thứ nhất, nhận thức đúng, đầy đủ mục đích, yêu cầu, quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhận xét, đánh giá cán bộ và triển khai thực hiện với tinh thần, trách nhiệm vì sự nghiệp chung

Quy định số 124-QĐ/TW ngày 4-10-2023 “Về việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị, Đảng ta đã nêu rõ mục đích, yêu cầu của việc kiểm điểm là: “(1) Nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, tự soi, tự sửa, thấy được ưu điểm để phát huy, hạn chế, khuyết điểm để khắc phục; chủ động phát hiện, ngăn chặn biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... (2) Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, tổ chức, cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên; bảo đảm trung thực, công tâm, khách quan, công khai, đạt được kết quả thực chất”. Do đó, “(1) phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; giữ vững sự đoàn kết, thống nhất. (2) Chú trọng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trách nhiệm, phương pháp trong thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả công việc. (3) Kết hợp chặt chẽ kết quả đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức, người lao động với đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên”.

Những quan điểm chỉ đạo, mục đích, yêu cầu và nguyên tắc kiểm điểm đó phải được quán triệt đầy đủ trong cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu; làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thực sự hiểu đúng, coi đó là việc nghiêm túc, quan trọng của mình, là dịp để hoàn thiện mình, từ đó phát huy được tính tự giác của cán bộ trong tự kiểm điểm, họ tự tin báo cáo trung thực với tổ chức đảng về ưu, khuyết điểm của mình; đồng thời, phát huy được trách nhiệm của người tham gia góp ý xây dựng cho người được kiểm điểm.

Các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu phải xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện, xác định thời gian thực hiện trên cơ sở số lượng công việc và số lượng người được kiểm điểm, nhận xét, đánh giá; hướng dẫn rõ việc làm bản tự đánh giá. Sớm khắc phục tình trạng cán bộ, đảng viên chỉ nhận được mẫu bản tự kiểm điểm, đánh giá, xếp loại hằng năm, không tiếp cận được các văn bản của Trung ương và của cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt trong thực hiện quy trình bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, người tham gia hầu như không nhận được bất cứ tài liệu gì liên quan tới việc mình sẽ làm. Điều đó đã làm hạn chế nhận thức của cán bộ, đảng viên trong việc tự kiểm điểm, đánh giá bản thân cũng như nhận xét, đánh giá đồng chí mình.

Thứ hai, phát huy tính tự giác, trung thực, dám nhìn thẳng vào sự thật, dũng cảm, công tâm, khách quan trong nhận xét, đánh giá của các chủ thể

Đây là yếu tố rất quan trọng làm cho chất lượng đánh giá cán bộ thực chất, hiệu quả. Không ai biết mình bằng chính bản thân mình, có ưu điểm gì, khuyết điểm gì, đã làm được việc gì, có hiệu quả hay không, thậm chí việc gì là sai trong công tác và sinh hoạt hằng ngày. Chỉ những người can đảm, có dũng khí, không cơ hội, vụ lợi; tự giác, trung thực, dám nhìn thẳng vào sự thật, tự nhìn nhận bản thân mình một cách khách quan và công tâm mới thực sự làm được việc đó. Như vậy, mới tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia góp ý kiến cho mình và mình cũng dễ dàng làm rõ được những vấn đề mà người khác góp ý chưa đúng đối với mình; người muốn áp đặt, trù dập, ganh ghét, ghen tỵ cũng không có cơ hội thực hiện ý đồ. Như vậy, không chỉ là việc đánh giá đúng cán bộ mà còn làm mọi người hiểu nhau hơn, xây dựng được mối đoàn kết nội bộ ngày càng tốt hơn.

Hiện nay, không ít cán bộ tự kiểm điểm hằng năm và nhiệm kỳ hoặc trong thực hiện quy trình nhân sự, chủ yếu nêu những thành tích, ưu điểm của mình. Vì vậy, trong các bản tự kiểm điểm cá nhân, dung lượng về ưu điểm, thành tích thường chiếm khoảng 80 - 90%, thậm chí cao hơn. Trong khi, phần khuyết điểm, hạn chế thường rất ít và nêu chung chung; những sai lầm, khuyết điểm trong triển khai, tổ chức thực hiện công việc theo chức năng, nhiệm vụ rất ít, thậm chí không được nhắc đến, nhất là những vấn đề có dấu hiệu vi phạm; lấy áp lực công việc ngụỵ biện cho khuyết điểm... Điều đó làm cho người góp ý kiến gặp nhiều khó khăn, nhất là góp ý cho lãnh đạo, quản lý trực tiếp lại càng khó khăn hơn và gần như là “không thể”. Dẫn đến chỉ khen là chính để “vô hại” cho mình. Do đó, đánh giá, xếp loại cán bộ thiếu chính xác và tạo ra mâu thuẫn nội bộ, “bằng mặt, không bằng lòng”.

Để khắc phục yếu kém này, việc phát huy dũng khí, bản lĩnh dám nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật của cán bộ trong tự kiểm điểm, đánh giá rất quan trọng. Bản thân cán bộ cần tự giác kiểm điểm, đánh giá nghiêm túc, thực chất về mình trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mình được giao và gắn với kết quả công việc của tập thể mà mình là lãnh đạo hoặc mình là thành viên; làm rõ quyền hạn, trách nhiệm và đóng góp của mình trong tập thể theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Trung thực, thẳng thắn trong đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, có đến đâu, nói đến đó, không thổi phồng thành tích, không “co ngót” khuyết điểm; thực sự cầu thị, dũng cảm khi nêu hạn chế, khuyết điểm của mình.

Cấp ủy, tập thể lãnh đạo, người đứng đầu phải quán triệt, nêu gương trong thực hiện tự phê bình và nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về mục đích, yêu cầu, trách nhiệm trong tự phê bình và phê bình. Làm cho họ thấy là dịp để nhận ra được mặt mạnh, mặt yếu của mình; là dịp giúp nhau phát huy mặt mạnh, khắc phục mặt yếu để mỗi người ngày càng hoàn thiện mình; không phải là dịp để trù dập, chì chiết nhau; có cơ chế động viên, khuyến khích, bảo vệ cán bộ trung thực, dám nhìn thẳng vào sự thật về các khuyết điểm của mình cũng như khuyết điểm, hạn chế của đồng chí mình. Đồng thời, kiên quyết với những người thiếu trung thực, giấu giếm khuyết điểm và những người có động cơ không đúng, thiếu tính xây dựng trong đóng góp ý kiến. Có như vậy, người tự kiểm điểm mới dũng cảm tự đánh giá đúng về mình và người tham gia ý kiến mới mạnh dạn góp ý chân thành, thẳng thắn, trung thực.

Bên cạnh đó, cơ quan quản lý không nên hạn chế dung lượng của bản tự kiểm điểm. Chính qua bản tự kiểm điểm cũng cho thấy ai làm nhiều, ai có công việc nhiều, đặc biệt là chất lượng, hiệu quả công việc và ngược lại. Mặt khác, việc hạn chế dung lượng của bản tự kiểm điểm cũng là lý do để người tự kiểm điểm ưu tiên việc nêu thành tích, ưu điểm của mình, còn khuyết điểm, hạn chế chỉ nêu mức độ vừa phải. Tâm lý dễ thấy là: không ai muốn “vạch áo cho người xem lưng”, người có dũng cảm đến đâu khi tự nêu khuyết điểm của mình cũng lý giải nguyên nhân, lý do của nó, vì vậy, cần chấp nhận nó. Thông qua đó, mọi người cũng sẽ hiểu được thêm về đồng chí của mình. Trước khi cán bộ, đảng viên viết bản tự kiểm điểm, cấp ủy và tập thể lãnh đạo cần thống nhất hướng dẫn, gợi ý (nhưng không ép buộc) cho từng người về những ưu điểm, khuyết điểm cơ bản trong thực thi nhiệm vụ, trong khắc phục khuyết điểm đã được chỉ ra trước đó để họ tự đánh giá. Đồng thời, phải có quan điểm cầu thị, bình tĩnh lắng nghe, công tâm, khách quan trước những ý kiến tự đánh giá và ý kiến góp ý để có kết luận chính xác nhất. Điều này một mặt sẽ khuyến khích cán bộ, đảng viên dũng cảm, trung thực trong tự đánh giá về mình và mặt khác ngăn chặn được những hiện tượng thiếu chân thành trong góp ý cho người khác.

Người tham gia nhận xét, đánh giá cán bộ phải thực sự công tâm, khách quan, trách nhiệm vì sự nghiệp chung; bỏ qua lợi ích cá nhân, thẳng thắn, trung thực, chân thành góp ý; ghi nhận, động viên, khích lệ, giúp đỡ để đồng chí mình hoàn thiện hơn. Ý kiến nhận xét và biểu quyết của người tham gia có ý nghĩa quyết định trong đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên. Nếu người tham gia dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung thì sẽ có kết quả đúng, tích cực và ngược lại sẽ có kết quả theo chiều hướng tiêu cực. Do đó, đòi hỏi người tham gia nhận xét, đánh giá phải dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói, dám chịu trách nhiệm về ý kiến của mình vì mục tiêu chung; không “thổi phồng” thành tích, che giấu khuyết điểm của nhau và ngược lại không nâng quan điểm, thổi phồng khuyết điểm của đồng chí mình hoặc quy chụp cho họ những khuyết điểm, sai lầm không phải của họ.

Thứ ba, khắc phục tình trạng hình thức trong đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên

Tình trạng khá phổ biến hiện nay là coi nhẹ công tác kiểm điểm, đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên hằng năm, thể hiện rõ trên các mặt:

Thời gian tổ chức họp quá ngắn làm hạn chế cơ hội trình bày và góp ý, chỉ những người được gợi ý thì mới kiểm điểm sâu về vấn đề được gợi ý, còn những việc “chưa bị lộ” và những người “chưa bị lộ” thì dễ dàng được “thông qua”.

Một nhóm cùng trình bày bản tự kiểm điểm để mọi người cùng góp ý kiến đã làm hạn chế việc góp ý. Vì, tâm lý chung là sợ “mất lòng” người này, người khác cho nên cứ “dĩ hòa, vi quý”, khen cả loạt cho “êm chuyện”, nhất là nhóm trình bày đó lại là cấp trên của mình. Bên cạnh đó, thời gian họp không nhiều, bị hạn chế thời lượng phát biểu, nên khi góp ý cho nhiều người cùng lúc thì người góp ý không có đủ thời gian để phân tích, làm rõ dẫn đến dễ bị hiểu sai động cơ góp ý.

Người được đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thường là lãnh đạo, quản lý và một số ít cán bộ, đảng viên không giữ chức vụ được định hướng xây dựng điển hình hoặc do thực hiện chính sách...

Chính những hạn chế này đã đưa đến hậu quả trong thực tế là, cán bộ có khuyết điểm nhưng không được chỉ rõ để khắc phục, sửa chữa kịp thời nên “tích tiểu thành đại”, chỉ đến khi cơ quan thanh tra, kiểm tra, điều tra vào cuộc, khuyết điểm mới được phanh phui, nên mất cán bộ; cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo nơi đó cũng không thoát khỏi trách nhiệm.

Để khắc phục những hạn chế này, cần quán triệt nghiêm túc mục đích, yêu cầu của công tác kiểm điểm, đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên; làm rõ quyền và nghĩa vụ của cán bộ, đảng viên trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình hằng năm; coi đây là công việc quan trọng của mỗi người và của tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị nhằm làm cho mỗi người ngày càng hoàn thiện cả về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, cả về năng lực công tác, làm cho tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể ngày càng trong sạch, vững mạnh; bố trí thời gian tổ chức họp hợp lý theo hướng phát huy tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói, dám chịu trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong xây dựng tập thể vững mạnh. Không vì bất cứ lý do gì mà hạn chế thời gian họp kiểm điểm, đánh giá, xếp loại cuối năm hoặc thực hiện quy trình nhân sự. Có thể họp nhiều cuộc để người tự kiểm điểm hoặc nhân sự có thời gian trình bày cặn kẽ ưu điểm, khuyết điểm của mình; người góp ý có thời gian phát biểu đầy đủ ý kiến của mình về những vấn đề mình biết về đồng chí mình; người chủ trì có cơ hội, thời gian lắng nghe, chắt lọc được những ưu điểm, khuyết điểm cốt lõi, cơ bản của đồng chí mình để có kết luận sát đúng. Bỏ hình thức một nhóm người trình bày bản tự kiểm điểm để mọi người góp ý kiến cùng một lúc. Việc xếp loại cần căn cứ vào vị trí việc làm và hiệu quả thực hiện công việc trên thực tế. Cấp ủy, tập thể lãnh đạo cần căn cứ kết quả thực hiện nhiệm vụ trong năm của đơn vị, cụ thể hóa ra từng khâu, từng việc để làm rõ khâu nào, việc nào, vị trí nào đóng góp nhiều vào thành tích của cơ quan, đơn vị, từ đó xác định người xứng đáng.

Thứ tư, trách nhiệm vì sự nghiệp chung trong công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng, các cấp, các ngành về nhận xét, đánh giá cán bộ

Nhận xét, đánh giá cán bộ, nhất là đối với những nhân sự bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan làm công tác cán bộ của Đảng với các cấp ủy, tổ chức đảng và các cơ quan có liên quan. Sự phối hợp đó phải dựa trên các nguyên tắc: (1) Kịp thời, hiệu quả, tuân thủ các quy định của Đảng và Nhà nước; (2) Đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức và không làm ảnh hưởng đến đối tượng được nhận xét, đánh giá; (3) Tuân thủ quy trình; bảo đảm bí mật thông tin trong quá trình thực hiện; công khai kết quả nhận xét, đánh giá theo quy định; (4) Thẳng thắn, trung thực, khách quan, công tâm trong quá trình phân tích, xử lý thông tin liên quan công tác nhận xét, đánh giá cán bộ.

Thực tế vừa qua, công tác phối hợp trong nhân xét, đánh giá cán bộ được các cấp, các ngành thực hiện tương đối nhịp nhàng, hiệu quả, đặc biệt đối với cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý công tác tại địa phương, sự phối hợp giữa Ban Tổ chức Trung ương với các tỉnh ủy, thành ủy có nhiều đổi mới và hiệu quả ngày càng cao hơn, giúp cho việc bố trí, sử dụng cán bộ ngày càng tốt hơn, nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý đã chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, đổi mới lề lối làm việc; nghiêm khắc với mình hơn, giữ gìn đạo đức, lối sống; tự sửa chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh hành vi và các hoạt động trong công tác và trong cuộc sống của mình, của gia đình, người thân.

Tuy nhiên, có lúc, có nơi, có đối tượng do chưa thực hiện tốt công tác phối hợp nên việc nhân xét, đánh giá chưa đúng, dẫn đến một số trường hợp bố trí, sử dụng đã gây hậu quả, thậm chí hậu quả nghiêm trọng và nhiều trường hợp đã bị xem xét xử lý kỷ luật, truy tố trước pháp luật; nhiều trường hợp vừa bầu, chỉ định vào cấp ủy địa phương đã phải xử lý cách chức, cho ra khỏi cấp ủy...

Để công tác phối hợp nhận xét, đánh giá cán bộ ngày càng hiệu quả:

(1) Ban Tổ chức Trung ương phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các tỉnh ủy, thành ủy trong việc hướng dẫn, giúp địa phương xây dựng, ban hành tiêu chí sát với đặc điểm, tình hình địa phương, để từ đó nhận xét, đánh giá đúng cán bộ trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Mỗi địa phương có đặc điểm, tình hình, điều kiện khác nhau, có nơi thuận lợi, có nơi khó khăn, do đó không thể dùng tiêu chí chung cho tất cả cán bộ trên các địa bàn khác nhau. Trong công tác này, Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan giám sát để bảo đảm nguyên tắc, quy trình, tiêu chí cơ bản theo quy định của Trung ương phải được tuân thủ. Đồng thời, cùng với cấp ủy địa phương phân tích kỹ đặc điểm, tình hình địa phương để vận dụng quy định của Trung ương một cách sát đúng, không xa rời thực tiễn. Bảo đảm được mặt bằng chung và khuyến khích được cán bộ, nhất là cán bộ công tác ở những địa bàn khó khăn, phức tạp.

(2) Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan thường xuyên thu thập và trao đổi thông tin với nhau. Đồng thời, thống nhất việc xử lý thông tin, loại bỏ những thông tin không xác đáng; lựa chọn những thông tin cần thiết, cần thông báo cho đối tượng và cấp ủy mà đối tượng đó là thành viên để giải trình (nếu thấy cần thiết). Cơ quan tham mưu công tác tổ chức của cấp ủy cấp trên tổng hợp các thông tin và dự thảo các gợi ý cần thiết, lấy ý kiến của ban thường vụ cấp ủy cấp dưới và các cơ quan có liên quan, báo cáo ban thường vụ cấp ủy cho ý kiến trước khi làm việc với cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy cấp dưới và đối tượng được nhận xét, đánh giá. Trong một số trường hợp, ban tổ chức cấpủy cấp trên và ban thường vụ cấp ủy cấp dưới có thể thành lập tổ công tác chung để gặp gỡ, tiếp xúc với một số tổ chức, cá nhân có liên quan để cùng nghe, tìm hiểu thông tin về đối tượng cần đánh giá.

(3) Tăng cường phối hợp trong quá trình thực hiện công tác kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân hằng năm và thực hiện quy trình nhân sự, bảo đảm cho công tác này được tiến hành theo đúng nguyên tắc, quy trình và thực chất, hiệu quả. Qua đó, nắm chắc những thông tin chính thống liên quan đến đối tượng được nhận xét, đánh giá. Đồng thời, qua đó, nắm tình hình cán bộ về các tiêu chí chính trị, tư tưởng, ý thức tổ chức kỷ luật, phong cách, lề lối làm việc, ý thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, ý thức dám chịu trách nhiệm... Ban tổ chức cấp ủy cấp trên cử cán bộ tham dự các kỳ kiểm điểm tự phê bình và phê bình của các ban thường vụ cấp ủy cấp dưới để vừa giám sát việc thực hiện, vừa nắm tình hình, kết quả thực hiện; đồng thời, cung cấp thông tin liên quan đến tập thể và cá nhân mà mình có phục vụ cho việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể, cá nhân.

3. Kết luận

Nhận xét, đánh giá cán bộ là công việc khó, phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến danh dự, chính sách, lợi ích của cán bộ, đảng viên. Để công tác này có chất lượng, hiệu quả, bên cạnh việc hoàn thiện, cụ thể hóa các tiêu chuẩn, tiêu chí, hoàn thiện quy trình và đổi mới phương pháp thì việc phát huy tinh thần dám nghĩ, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói, dám chịu trách nhiệm trong công tác nhận xét, đánh giá cán bộ, đảng viên sẽ góp phần quan trọng khắc phục hạn chế, yếu kém của công tác này, như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Chống các biểu hiện cơ hội, tham vọng quyền lực, vận động cá nhân, cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm...”(9), qua đó sẽ “Không để lọt những người không xứng đáng, không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhưng cũng không để sót những cán bộ thực sự có đức, có tài”(10).

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2025

Ngày nhận bài: 05-7-2025; Ngày bình duyệt: 09-7-2025; Ngày duyệt đăng: 14-7-2025.

Email tác giả: vinhha.nxd@gmail.com

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.194.

(2), (10) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.196, 243.

(3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, 2011, tr.318, 321.

(5), (6), (7), (8) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (lưu hành nội bộ), Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr.45, 48, 47, 62-63.

(9) Trăn trở của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về nhân sự Đại hội XIV, https://vietnamnet.vn, ngày đăng: 13-3-2024.

Nổi bật
    Tin mới nhất
    Dám nghĩ, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trong đánh giá cán bộ
    POWERED BY