Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Sự phát triển lý luận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thứ tư, 15 Tháng 7 2015 16:45
4653 Lượt xem

Sự phát triển lý luận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

(LLCT) - Đổi mới tư duy lý luận kết hợp với tổng kết thực tiễn đã làm sáng tỏ hơn những vấn đề cơ bản về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Tuy nhiên yêu cầu thực tế đặt ra phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để làm rõ cơ sở khoa học, nội dung và tính hiện thực của từng đặc trưng trong mô hình CNXH. Làm rõ nội dung, mục tiêu của chặng đường tiếp theo sau năm 2020 khi Việt Nam đã có bạn trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Khắc phục sự buông lỏng, lúng túng trong xây dựng quan hệ sản xuất XHCN; vấn đề phân hóa giàu nghèo và hoàn thiện hệ thống các chính sách xã hội vì nhân dân, vì con người; văn hóa, đạo đức, lối sống, chuẩn mực con người trong chế độ XHCN, CNXH ở Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.

Nội dung cốt yếu trong lý luận của Mác-Ăngghen về CNXH là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ áp bức giai cấp và dân tộc, xóa bỏ bất công trên cơ sở thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xác lập chế độ công hữu nhằm phát triển mạnh mẽ nền kinh tế, mang lại cuộc sống tốt đẹp cho con người. Mười biện pháp được các ông đề ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (2-1848) đã hướng vào thực hiện mục tiêu của CNXH. Ngay từ đầu, Mác và Ăngghen đã phê phán những trào lưu CNXH phản động, đó là: CNXH phong kiến, CNXH tiểu tư sản, CNXH tư sản.v.v Điều đó cho thấy sự cần thiết phải nhận thức đúng đắn về CNXH với tư cách một khoa học. Ăngghen nhấn mạnh: “Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội thành một khoa học thì trước hết phải đặt chủ nghĩa xã hội trên một cơ sở hiện thực”(1).

Mác cho rằng, giữa xã hội TBCN và xã hội CSCN là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Đó là thời kỳ quá độ. Phát triển tư tưởng của Mác và Ăngghen, Lênin đã từ hiện thực của cách mạng thế giới và cách mạng Nga đầu thế kỷ XX, nêu lên luận điểm quan trọng về cách mạng XHCN và quá độ lên CNXH ở các nước. Lênin cho rằng: “người ta không thể coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là một công cuộc làm một lần thì xong, mà phải coi đó là một thời đại”(2[). Đó là thời đại chấn động mạnh mẽ và diễn ra những biến đổi sâu sắc về chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng. Trong tác phẩm “Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh” và tính tiểu tư sản” viết tháng 5-1918, Lênin đã nêu hết sức rõ ràng về những đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH. Lênin nhấn mạnh thời kỳ quá độ cần phải phát triển nhiều thành phần kinh tế và coi trọng thúc đẩy kinh tế thị trường; phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất tạo ra năng suất lao động cao; nhận thức rõ vai trò các giai cấp và nội dung, hình thức đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ; nhấn mạnh vai trò tổ chức, quản lý của nhà nước XHCN; về thời gian phải trải qua nhiều chặng đường, bước đi khác nhau. Lênin nhấn mạnh: “Trong trường hợp tốt nhất thì bước quá độ ấy cũng chiếm mất nhiều năm. Suốt cả thời kỳ đó, trong chính sách của chúng ta, lại chia ra nhiều bước quá độ nhỏ hơn nữa. Và tất cả cái khó khăn của nhiệm vụ chúng ta phải làm, tất cả cái khó khăn của chính sách và tất cả sự khéo léo của chính sách là ở chỗ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù của từng bước quá độ đó”(3).

Cách mạng Tháng Mười 1917, nước Nga Xô viết và sau đó là Liên Xô đã khởi đầu quá trình hiện thực hóa CNXH. Cách mạng XHCN đã diễn ra ở nhiều nước với những thành tựu quan trọng. Liên Xô và hệ thống các nước XHCN trở thành một thực thể không thể phủ nhận, tỏ rõ sức mạnh của một hình thái kinh tế - xã hội mới đang ra đời, định hình và phát triển. Hiện thực đó đã làm cho CNTB, đế quốc phải sử dụng các thủ đoạn từ chiến tranh xâm lược, chiến tranh lạnh, đến “diễn biến hòa bình” để thủ tiêu CNXH cả về phương diện ý thức hệ và chế độ chính trị. Cũng cần thấy rõ một thực tế là trong tiến hành cách mạng XHCN, nhiều đảng cộng sản cầm quyền đã bị chi phối bởi tư duy chủ quan, duy ý chí, nóng vội, không nhận thức đầy đủ những đặc điểm, đặc trưng và quy luật của sự quá độ lên CNXH dẫn tới những sai lầm trong chính sách, giải pháp, bước đi với kết cục thất bại, đổ vỡ của mô hình CNXH như ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Đó là bài học đau đớn và sâu sắc cả về lý luận và chính trị - thực tiễn.

Mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc và tiến lên CNXH đã được đề ra khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930). Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công nhưng nước Việt Nam độc lập lại phải tiến hành kháng chiến lâu dài chống xâm lược nên nhiệm vụ xây dựng CNXH vẫn chưa thể đặt ra trực tiếp. Năm 1954, miền Bắc Việt Nam được giải phóng và quá độ tiến lên CNXH. Năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mục tiêu của CNXH là dân giàu, nước mạnh, là làm cho mọi người được ấm no, tự do, sung sướng, hạnh phúc, được học hành, có nhà ở, ốm đau được chữa bệnh, trẻ em, người già được chăm sóc, người có hoàn cảnh khó khăn được giúp đỡ. Hồ Chí Minh cho rằng, cần nhận thức rõ đặc điểm của Việt Nam đi lên CNXH từ một nước thuộc địa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chiến tranh tàn phá kéo dài. Người nêu rõ: “Trong những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác-Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”(4).

Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh con đường riêng của cách mạng XHCN ở Việt Nam.

Đại hội III của Đảng (9-1960) đã đề ra đường lối cách mạng XHCN ở miền Bắc với nội dung nắm vững chuyên chính vô sản, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng, văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, coi công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ, phương châm là tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH. Do tác động của chiến tranh và nhận thức rõ hơn đặc điểm của đất nước, năm 1970, Đảng đã điều chỉnh nhận thức, đề ra bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ với nội dung chủ yếu là tích lũy vốn cho công nghiệp hóa và cải thiện đời sống nhân dân, chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Sau ngày đất nước thống nhất (30-4-1975), Đại hội IV của Đảng (12-1976) đề ra đường lối cách mạng XHCN của cả nước. Đại hội IV đã bỏ nội dung của bước đi ban đầu với mong muốn trong vài ba kế hoạch 5 năm có thể hoàn thành thời kỳ quá độ. Cuối thập niên 70 đầu thập niên 80, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội. Yêu cầu khách quan đặt ra phải tìm đường đổi mới, bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận và sửa chữa cơ chế, chính sách, nhận thức lại những đặc trưng và quy luật khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH. Đại hội V của Đảng (3-1982) đã nêu rõ nội dung chặng đường đầu tiên thời kỳ quá độ là chuẩn bị những tiền đề cần thiết để thúc đẩy công nghiệp hóa. Đại hội VI của Đảng (12-1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.

Thực tiễn và nhận thức lý luận về quá độ lên CNXH trước đổi mới (1954-1986) có thể khái quát trên những nội dung cơ bản:

Sử dụng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân - sản phẩm của cách mạng giải phóng dân tộc - chuyển sang làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản với những chức năng, nhiệm vụ mới hướng vào mục tiêu xây dựng xã hội XHCN, bảo vệ thành quả cách mạng và Tổ quốc Việt Nam độc lập, thống nhất. Chế độ chính trị với sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện nền dân chủ XHCN.

Xóa bỏ chế độ người bóc lột người và mọi sự áp bức, bất công. Xác lập và xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu: toàn dân (quốc doanh) và tập thể. Không chấp nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế gắn với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Xây dựng và phát triển nền kinh tế theo hướng sản xuất lớn XHCN.

Tập trung xây dựng và phát triển cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH với sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ và cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt, không ngừng nâng cao năng suất lao động.

Kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, xác lập và hoàn thiện cơ chế quản lý theo kế hoạch, tập trung, thống nhất và quyết định hành chính của Nhà nước. Nhà nước chi phối mọi hoạt động và quan hệ kinh tế-xã hội, quản lý chặt chẽ các hoạt động từ sản xuất đến lưu thông, phân phối sản phẩm và hình thành chế độ bao cấp của Nhà nước trong cả sản xuất và tiêu dùng.

Xây dựng và phát triển nền văn hóa có nội dung XHCN và có tính dân tộc. Phát triển giáo dục và đào tạo, xây dựng con người mới XHCN, giáo dục sâu sắc tư tưởng, lý tưởng CSCN và chủ nghĩa yêu nước, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc XHCN, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và cuộc sống bình yên của nhân dân. Nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản và chủ nghĩa quốc tế XHCN, mở rộng quan hệ đối ngoại, vì hòa bình hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia dân tộc.

Đại hội VI của Đảng (12-1986) hoạch định đường lối đổi mới toàn diện trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn những quy luật khách quan và nội dung, bước đi của thời kỳ quá độ lên CNXH; sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm chủ quan, duy ý chí, nóng vội. Bài học lớn là phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước, “tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”(5). Đại hội VI của Đảng là bước phát triển rất quan trọng có tính bước ngoặt trong nhận thức về CNXH và quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

Trong quá trình lãnh đạo và tổ chức công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam chú trọng trên cả hai phương diện: tổ chức thực tiễn, phát triển nhận thức lý luận và sự thống nhất trên hai vấn đề đó trong từng bước phát triển. Chú trọng đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống pháp luật bảo đảm cho sự đổi mới đúng định hướng, có nguyên tắc và phát triển có hiệu quả thiết thực trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Từ thực tiễn sinh động, phong phú của tiến trình đổi mới, cả những vấn đề thuộc về cơ hội và thách thức mới nảy sinh, Đảng coi trọng tổng kết để không ngừng làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, trong đó có nhận thức lý luận về quá độ  lên CNXH ở Việt Nam.

Dựa vào nội lực đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp chặt chẽ tinh thần độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, công cuộc đổi mới gần 30 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử: đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, suy thoái kinh tế của khu vực và thế giới, hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH vượt khỏi tình trạng một nước nghèo, kém phát triển; giữ vững ổn định chính trị và con đường XHCN; nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân trên cơ sở giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội, coi trọng nhân tố con người; nâng cao vị thế của đất nước.

Kiên trì đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật trong chỉ đạo và tổ chức thực tiễn, đồng thời Đảng đổi mới tư duy, đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là lý luận về CNXH và quá độ lên CNXH. Sự kết hợp đó được khẳng định khi Đại hội VII của Đảng
(6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên Cương lĩnh của Đảng nêu rõ mục tiêu, mô hình 6 đặc trưng của xã hội XHCN ở Việt Nam, làm rõ những nội dung, hình thức, bước đi của thời kỳ quá độ.

Cuộc sống ngày càng cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của lý luận và công tác lý luận. Mọi sai lầm, khuyết điểm đều bắt nguồn từ trình độ nhận thức lý luận hạn chế, từ sự lạc hậu về lý luận, như Đại hội VI của Đảng đã tự phê bình. Ngày 28-3-1992, Bộ Chính trị khóa VII đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TW nêu phương hướng toàn diện về nghiên cứu lý luận. Nghị quyết nhấn mạnh tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, đi sâu tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận một cách sáng tạo. Chú trọng nghiên cứu những kinh nghiệm lịch sử hơn 70 năm xây dựng CNXH hiện thực và những bài học từ sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Nghiên cứu những vấn đề về thời đại, về CNTB hiện đại, về những biến đổi trong quan hệ quốc tế, về trật tự thế giới mới. Nghiên cứu lý luận về CNXH, Nghị quyết của Bộ Chính trị nêu rõ: “Tiếp tục đi sâu nghiên cứu, phát triển và hoàn chỉnh hệ thống những luận cứ khoa học của sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phát hiện những xu hướng, tính quy luật, các mâu thuẫn và động lực, hình thức và bước đi của con đường phát triển ấy. Làm rõ bản chất và những đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(6).

Sự phát triển của công cuộc đổi mới có nhiều vấn đề thực tiễn rất sôi động, mới mẻ cần có sự lý giải về lý luận và tổng kết làm sáng tỏ nhận thức lý luận. Sự phát triển của các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, các loại hình thị trường và sự vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Nội dung, quy mô, bước đi của CNH, HĐH đất nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và hoàn thiện hệ thống chính trị. Những vấn đề xã hội và hệ thống chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. Vấn đề quốc phòng, an ninh và chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế. Vấn đề phát triển văn hóa và con người. Vấn đề Đảng Cộng sản lãnh đạo và cầm quyền trong xây dựng CNXH. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng nền dân chủ XHCN.

Các Đại hội của Đảng, nhiều hội nghị Ban Chấp hành Trung ương các khóa đã tập trung, tổng kết lý luận từ thực tiễn đổi mới. Đặc biệt, Đại hội XI của Đảng (1-2011) đã tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). Bộ Chính trị khóa XI đã chủ trương tổng kết 30 năm đổi mới để tiếp tục làm rõ những vấn đề lý luận-thực tiễn của quá trình đổi mới. Nhận thức nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam là công cuộc đổi mới đã ngày càng làm sáng tỏ những vấn đề về CNXH và quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

Thứ nhất, sáng tỏ hơn về mục tiêu, mô hình và bản chất của chế độ XHCN ở Việt Nam.

“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(7).

Tám đặc trưng của mô hình trên đây vừa là mục tiêu, vừa thể hiện bản chất của chế độ XHCN được nêu rõ trong những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

Để thực hiện thành công mục tiêu, mô hình CNXH, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ 8 phương hướng cơ bản với những nội dung mới: Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Cương lĩnh nêu rõ, trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”(8).

Thứ hai, sáng tỏ những vấn đề của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

Kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển, cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật, bao gồm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế hỗn hợp và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nền kinh tế đó tồn tại nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân mà Nhà nước đứng làm chủ sở hữu, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Sự phát triển nhiều loại hình thị trường: thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường sức lao động và lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học, công nghệ,… Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường nhưng vẫn phát triển có kế hoạch theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với vai trò quản lý điều hành của Nhà nước.

Từ sau Đại hội XI của Đảng, nền kinh tế đang được tái cấu trúc, đổi mới cơ cấu đầu tư, thực hiện các đột phá chiến lược, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. 

Về chế độ chính trị, củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt hơn dân chủ XHCN, coi đó là bản chất của chế độ, là mục tiêu và động lực của sự phát triển đất nước. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị cả về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức. Xây dựng và không ngừng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN.

Đại hội XI nhấn mạnh xây dựng CNXH “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”(9). “Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi”(10). Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn liền với xây dựng con người với những chuẩn mực toàn diện và tiến bộ.

Quá độ lên CNXH ở Việt Nam, nhất là thực tiễn của công cuộc đổi mới cho thấy hoàn toàn có thể bỏ qua chế độ TBCN để tiến lên CNXH. Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.

Đổi mới tư duy lý luận kết hợp với tổng kết thực tiễn đã làm sáng tỏ hơn những vấn đề cơ bản về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Tuy nhiên yêu cầu thực tế đặt ra phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để làm rõ cơ sở khoa học, nội dung và tính hiện thực của từng đặc trưng trong mô hình CNXH. Làm rõ nội dung, mục tiêu của chặng đường tiếp theo sau năm 2020 khi Việt Nam đã có bạn trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Khắc phục sự buông lỏng, lúng túng trong xây dựng quan hệ sản xuất XHCN; vấn đề phân hóa giàu nghèo và hoàn thiện hệ thống các chính sách xã hội vì nhân dân, vì con người; văn hóa, đạo đức, lối sống, chuẩn mực con người trong chế độ XHCN, CNXH ở Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2014

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.293.

(2) V.I.Lênin: Toàn tập, t.26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.444.

(3) Sđd, t.40, tr.119-120.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.92

(5) ĐCSVN: Văn kiện toàn Đảng Toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.363.

(6) Sđd, t.52, tr.23-24.

(7) (8), (9), (10) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70,70,71, 80.

 

PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền