Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Mối quan hệ giữa vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ ba, 18 Tháng 8 2015 15:46
4075 Lượt xem

Mối quan hệ giữa vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

(LLCT) - Vấn đề cốt lõi của cải cách thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là xử lý tốt quan hệ giữa vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước. Phát huy đầy đủ tác dụng của điều tiết thị trường mới bảo đảm cho kinh tế phát triển; song có xác định đúng vị trí và thực hiện tốt chức năng của Nhà nước mới có thể duy trì, giữ vững sự ổn định của kinh tế vĩ mô. Hai việc này cần được kết hợp một cách hữu cơ, bổ sung, phối hợp lẫn nhau để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, bền vững.

1. Chuyển đổi và xử lý từng bước quan hệ giữa vai trò của Nhà nước và vai trò của thị trường

Trong công cuộc đổi mới gần 30 năm qua, chúng ta đã thực hiện chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, từ đó giải phóng được sức sản xuất, tạo ra sự phát triển cho đất nước.

Đặc trưng chủ yếu của thể chế cũ là Nhà nước thâu tóm tất cả: về vật tư, hàng hóa, thống nhất thu mua, phân phối, tiêu thụ; về nhân lực thống nhất đào tạo, phân phối; về tiền vốn thống nhất thu, chi; quyền đầu tư tập trung vào trong tay chính quyền Trung ương. Những điều này đã phủ định sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa.

Đổi mới kinh tế bắt đầu từ việc phân quyền, xây dựng quan hệ thị trường. Trong nông nghiệp, thực hiện chế độ khoán sản phẩm, liên kết sản xuất, nông hộ trở thành người sản xuất kinh doanh hàng hóa độc lập, từ đó xuất hiện các trang trại đi đầu trong việc phá bỏ những ràng buộc của thể chế cũ. Tiếp đó, đổi mới trong lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp, bắt đầu từ việc phá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, phá bỏ chủ nghĩa bình quân, cải cách quản lý trong lĩnh vực kế hoạch, đầu tư, nhân sự, tiền lương, thuế.

Đại hội IX của Đảng đã khẳng định mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ ở nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và từng bước tạo dựng bốn cột trụ lớn của kinh tế thị trường: chủ thể thị trường, hệ thống thị trường; hệ thống điều hành kiểm soát vĩ mô và hệ thống pháp luật. Nhờ đó, công cuộc đổi mới kinh tế được thúc đẩy nhanh chóng và có trật tự. Các loại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế dần thiết lập được chế độ doanh nghiệp hiện đại, bình đẳng trước pháp luật và trở thành các chủ thể cạnh tranh trên thị trường, tự chủ trong kinh doanh, tự chịu lỗ, lãi. Hệ thống thị trường thống nhất, mở cửa, cạnh tranh dần được hình thành. Hệ thống điều hành kiểm soát vĩ mô được cân đối, có sự phối hợp giữa kế hoạch, thuế, tài chính và dần dần hoàn thiện trong thực tiễn, góp phần ngăn chặn lạm phát, mở rộng nhu cầu ở trong nước. Hệ thống pháp luật của kinh tế thị trường nhanh chóng được thiết lập và đã phát huy tác dụng quan trọng trong việc bảo đảm trật tự thị trường.

Khi thiết lập bước đầu khuôn khổ của thể chế kinh tế thị trường, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 6 khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đề ra yêu cầu mới về việc xử lý tốt hơn nữa quan hệ giữa vai trò của Nhà nước với vai trò của thị trường, nhờ vậy thể chế kinh tế thị trường của nước ta đã vượt qua được những thách thức, chúng ta cũng tích lũy thêm được nhiều kinh nghiệm mới trong công tác điều hành, kiểm soát vĩ mô.

Thực tiễn chứng minh, công cuộc đổi mới giành được thành công, chủ yếu bởi chúng ta đã từng bước đổi mới theo định hướng thị trường. Đây là một sự chọn lựa đúng đắn, phù hợp với tình hình đất nước trong giai đoạn quá độ lên CNXH. Sai lầm của thể chế cũ chính là sự tập trung quan liêu bao cấp, xa rời tình hình đất nước, đi ngược lại với những nguyên tắc lợi ích vật chất của CNXH, bỏ qua kinh tế thị trường - một giai đoạn phát triển tất yếu của xã hội loài người. Trong thực hiện thể chế kinh tế thị trường, lợi ích của doanh nghiệp được quyết định dựa trên kết quả kinh doanh, phân phối thu nhập dựa trên cơ sở mức đóng góp của mọi người. Khuyến khích lợi ích vật chất đã làm cho doanh nghiệp và người lao động chủ động và tích cực hơn; các yếu tố sản xuất được phân bổ theo cơ chế thị trường nên đã nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội. Bằng việc phát huy quy luật giá trị, vai trò của “bàn tay vô hình”, đã tăng cường sức sống cho nền kinh tế, tạo nên động lực lớn lao để thúc đẩy kinh tế phát triển. Chỉ sau hơn mười năm đổi mới, nước ta đã chấm dứt được tình trạng một nền kinh tế bị thiếu hụt, hàng hóa nghèo nàn. Nhà nước một mặt định ra những quy tắc và công cụ điều hành kiểm soát vĩ mô, mặt khác vẫn phát huy tác dụng của “bàn tay vô hình”, nên đã bảo đảm vận hành tốt cơ chế thị trường, giảm thiểu tính tự phát của thị trường, dần dần ngăn chặn được những biến động lớn có tính chu kỳ của nền kinh tế. Thực tiễn cho thấy, không nên thiên lệch quá về bên nào giữa vai trò của Nhà nước và của thị trường, mà phải kết hợp cả hai, đó chính là nguyên tắc quan trọng khi xử lý quan hệ giữa vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước.

2. Phát huy ở mức độ cao hơn, phạm vi rộng hơn nữa vai trò của cơ chế thị trường trong việc phân bổ nguồn lực xã hội

Thực tiễn công cuộc đổi mới gần 30 năm qua đã chứng minh, lĩnh vực nào đạt mức thị trường hóa cao, cho phép sử dụng các yếu tố sản xuất thì sẽ phát triển nhanh; lĩnh vực nào còn tương đối khép kín hay hạn chế sử dụng các yếu tố sản xuất thì lĩnh vực đó phát triển chậm. Hiện nay, trong nhiều lĩnh vực kinh tế, tình trạng các yếu tố sản xuất chưa sử dụng hết hoặc ở một số lĩnh vực khác lại bị hạn chế sử dụng nên dẫn tới sự thiếu hụt nguồn cung một cách nghiêm trọng để đáp ứng nhu cầu.

Vì vậy, chỉ có phát huy ở mức độ lớn hơn, phạm vi rộng hơn vai trò của thị trường trong phân bổ nguồn lực, tài nguyên, tạo ra điều kiện tốt hơn để các yếu tố sản xuất được tự do lưu chuyển mới có thể kích thích hơn nữa tiềm lực to lớn cho tăng trưởng kinh tế, thực hiện mục tiêu phát triển mà Đại hội XI của Đảng đã đề ra. Việc phát huy vai trò điều tiết của thị trường phải bắt đầu từ bốn lĩnh vực:

- Đi sâu cải cách thể chế tài chính tiền tệ, giải phóng tiềm lực vốn. Sự phân bổ nguồn lực trước hết thể hiện ở việc phân bổ nguồn vốn hiện có. Nguồn vốn dự trữ của nước ta tương đối khá, nhưng do khả năng lưu chuyển kém, tỷ lệ sử dụng vốn thấp, nguồn vốn tập trung nhiều cho các doanh nghiệp nhà nước, các hạng mục trọng điểm, thành phố và vùng kinh tế trọng điểm, nên các vùng nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa và khu vực miền núi không được cung cấp đủ vốn, gây ra sự mất cân đối lớn trong phát triển kinh tế. Cải cách thể chế tài chính là phải tạo ra sự đột phá, từ đó nâng cao năng lực phân bổ nguồn tài nguyên vốn. Phương hướng và trọng điểm của cải cách thể chế tài chính, phát triển thị trường vốn bao gồm nới rộng chuẩn của thị trường tài chính, tổ chức xây dựng cơ chế giám sát, quản lý chặt chẽ, thành lập chế độ bảo hiểm tiền gửi và chế độ bảo đảm tiền vay, thị trường hóa lãi suất, thành lập thể chế quản lý ngoại hối, phát triển thị trường vốn thành nhiều tầng, nấc.

- Cải cách thể chế quản lý nhằm giải phóng nguồn lực sức lao động. Tiềm lực sức lao động của nước ta rất lớn, đặc biệt ở nông thôn. Tuy nhiên, do quy mô đất đai nhỏ, lẻ đã dẫn tới năng suất lao động nông nghiệp thấp và làm tăng khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn. Nếu thúc đẩy hiện đại hóa trong nông nghiệp, sử dụng đất đai hiệu quả thì năng suất lao động nông nghiệp có thể nâng lên nhiều lần. Từ việc giải phóng những tiềm năng trong lĩnh vực đất đai đến giải phóng sức sản xuất trong công nghiệp và dịch vụ, sẽ hình thành đòn bẩy thúc đẩy mạnh mẽ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và dần thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa thành thị với nông thôn. Khuyến khích chuyển nhượng có bồi thường quyền sử dụng đất đai, phát triển các chủ thể đầu tư kinh doanh trong nông nghiệp kiểu mới như kinh tế hộ gia đình trở thành trang trại và nông trại gia đình lớn, hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới, công ty nông nghiệp, thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư đầu tư vào nông nghiệp, đào tạo những người nông dân kiểu mới. Cần xác lập quyền và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai lâu dài cho nông dân. Đẩy nhanh việc thành lập một hệ thống bảo đảm an sinh xã hội thống nhất trên toàn quốc, tạo ra điều kiện để sức lao động được tự do lưu chuyển.

- Cải cách thể chế quản lý khoa học - công nghệ, thực thi chiến lược đổi mới khoa học - công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển. Phải tối ưu hóa việc phân bổ nguồn lực khoa học - công nghệ, nâng cao năng lực tự chủ, đổi mới. Những năm gần đây, đầu tư nghiên cứu khoa học đã tăng lên, nhiều thành quả khoa học - kỹ thuật bắt đầu xuất hiện. Ở trong nước, số lượng kết quả khoa học xin đăng ký bằng phát minh sáng chế tăng nhanh.

Hiện nay, có hai lĩnh vực cần khai thác, phát huy tiềm lực ngay: Một là, doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước đã được tập trung khối lượng lớn nguồn lực, kỹ thuật và nhân tài, cần phải có cơ chế phát huy vai trò nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước trong tự chủ, đổi mới, coi những kết quả nghiên cứu khoa học - công nghệ là tài sản vô hình làm tăng giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích doanh nghiệp tăng đầu tư cho nghiên cứu triển khai. Như vậy sẽ kích thích được tính tích cực trong đổi mới của doanh nghiệp nhà nước. Hai là, các trường đại học, học viện. Hiện nay, nhiều trường đại học, học viện trên toàn cầu là những cơ sở nghiên cứu với kết quả được cấp bằng phát minh, sáng chế. Trường đại học, học viện phải trở thành những cơ sở nghiên cứu phát minh, sáng chế kỹ thuật, nâng cao tầm ảnh hưởng đối với phát triển công nghiệp và dịch vụ. Cần tuyển chọn, bổ nhiệm những giáo viên có năng lực, đổi mới công tác đào tạo nhân tài. Tranh thủ cơ hội để thu hút nhân tài, khoa học - kỹ thuật, kinh nghiệm, coi đây là một chủ trương quan trọng để nâng cao khả năng tự chủ, đổi mới về khoa học - công nghệ. Phát triển những ngành, nghề chiến lược mới, quan trọng là phải trang bị kỹ thuật của chính mình. Hiện nay, nhiều ngành, địa phương đang xây dựng, hình thành những ngành nghề chiến lược mới, song vẫn còn hiện tượng sử dụng công nghệ lạc hậu. Vì thế phải tổ chức liên kết ngành, nghề, thực hiện đổi mới, tăng đầu tư, hướng dẫn doanh nghiệp chú trọng đầu tư cho nghiên cứu khoa học, hình thành nên một môi trường xã hội trong đó luôn khuyến khích đổi mới khoa học - công nghệ.

- Cải cách cơ chế để hình thành giá tài nguyên, thúc đẩy việc tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường. Giá tài nguyên như đất đai, khoáng sản, nước, phải phản ánh được mức độ khan hiếm. Hiện nay, do giá một số tài nguyên khá thấp, đã gây nên việc sử dụng bất hợp lý và lãng phí. Chỉ thông qua tác dụng của cơ chế giá cả mới thúc đẩy toàn xã hội có ý thức tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái.

3. Đẩy mạnh cải cách thể chế hành chính, xây dựng chính quyền các cấp theo kiểu phục vụ

Chính quyền các cấp giữ vai trò quan trọng trong việc xử lý tốt quan hệ giữa thị trường và Nhà nước. Cần căn cứ vào mục tiêu xây dựng thể chế hành chính XHCN để đẩy mạnh cải cách hành chính, chính quyền phục vụ doanh nghiệp, xã hội và nhân dân; xây dựng chính quyền theo kiểu cung cấp dịch vụ một cách khoa học, với bộ máy làm việc liêm khiết, hiệu quả cao. Chú trọng thúc đẩy cải cách ở những khía cạnh sau:

Hoàn thiện hệ thống điều hành kiểm soát vĩ mô. Xây dựng hệ thống điều hành kiểm soát kinh tế vĩ mô trong các lĩnh vực kế hoạch, tài chính, thuế, bảo đảm có sự phối hợp và cân bằng để ổn định kinh tế. Hoàn thiện hệ thống kế hoạch bao gồm cả kế hoạch dài, trung hạn hằng năm. Nâng cao tính khoa học, dự báo và tính khả thi của kế hoạch để kế hoạch trở thành căn cứ của điều hành kiểm soát vĩ mô. Đẩy nhanh cải cách thể chế thuế, kiện toàn thể chế tài chính và phân quyền xử lý các vụ việc giữa Trung ương với địa phương. Hoàn thiện hệ thống tài chính công, hình thành chế độ thuế với cơ cấu hợp lý, bảo đảm công bằng xã hội. Cải cách thể chế tài chính, xây dựng hệ thống tài chính hiện đại, phát triển đồng bộ thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường bảo hiểm, giữ vững sự cân đối giữa cung - cầu, tăng cường bảo đảm kinh tế vĩ mô ổn định, hỗ trợ các chủ thể kinh tế phát triển.

Đơn giản hóa các khâu xét duyệt thủ tục hành chính, giảm thiểu sự can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cải cách những thủ tục xét duyệt hiện nay, tất cả những gì nên để thị trường điều tiết và là những quyết sách kinh doanh của doanh nghiệp thì đều để cho thị trường và doanh nghiệp giải quyết.

Xác định trật tự thị trường, tạo dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Các loại hình doanh nghiệp đều phải được cạnh tranh công bằng và phải bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Kiên quyết ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không chính đáng, nhất là những hành vi làm hàng giả, hàng kém chất lượng làm tổn hại đến người tiêu dùng. Cần định rõ tiêu chuẩn chất lượng chặt chẽ trên cơ sở khoa học, tăng cường giám sát, quản lý thị trường, phát huy vai trò giám sát của người tiêu dùng đối với chất lượng hàng hóa. Trong vấn đề thuế và quyền tiếp cận các khoản vay tín dụng, sử dụng đất, cần phải coi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế như nhau, cùng bình đẳng tiếp cận những yếu tố sản xuất nhằm tạo thuận lợi cho những doanh nghiệp có điều kiện được phát triển đầy đủ, còn những doanh nghiệp lạc hậu phải bị đào thải.

4. Những vấn đề có tính nguyên tắc để xử lý tốt quan hệ giữa vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước

Xử lý như thế nào quan hệ giữa vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước là một chủ đề mang tính toàn cầu. Các học giả kinh tế với những nhận thức khác nhau về vấn đề này hình thành những trường phái khác nhau. Tuy nhiên, thực tiễn đổi mới gần 30 năm qua đã giúp chúng ta tích lũy nhiều kinh nghiệm phong phú, hình thành nên nhận thức và được kiểm chứng qua thực tiễn chứng minh là chính xác, trở thành bộ phận hợp thành quan trọng của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Quan hệ giữa vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước cần phải được xác định phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất. Bởi vì, các quốc gia khác nhau sẽ ở những giai đoạn phát triển khác nhau, có trình độ phát triển sức sản xuất, trình độ phát triển thị trường khác nhau, nên xử lý mối quan hệ giữa vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước cần phải xuất phát từ thực tế mỗi nước, dựa trên nguyên tắc làm gì đều phải có lợi cho phát triển sức sản xuất, chứ không thể bê nguyên xi một lý luận, một mô thức mà áp dụng. Chính vì chúng ta giữ vững nguyên tắc: mọi đổi mới đều phải qua thử nghiệm và chúng ta không ngừng tìm kiếm biện pháp phù hợp với thực tế của đất nước nên đã kết hợp một cách hữu cơ vai trò của Nhà nước với sự điều tiết của thị trường, thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngày nay, tình hình nước ta đã thay đổi khá nhanh, trước tình hình mới đó, áp dụng biện pháp mới, đề ra những chính sách phải xuất phát từ thực tế đất nước, đó là vấn đề quan trọng để xử lý tốt quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.

Ra sức xây dựng chủ thể thị trường, hệ thống thị trường, tổ chức ngành nghề và cơ cấu tổ chức xã hội, nâng cao năng lực xã hội, Nhà nước không nên bao biện quá nhiều. Có càng nhiều doanh nghiệp lớn mạnh thì càng có thể sáng tạo ra nhiều của cải hơn, có hệ thống thị trường hoàn thiện thì càng có thể huy động được nhiều yếu tố sản xuất tiềm năng, phân bổ hợp lý theo nhu cầu thị trường. Tổ chức ngành nghề là những tổ chức mang tính tự nguyện, có thể phát huy tiến bộ kỹ thuật và có những lợi thế khác vì thế nên khuyến khích phát triển.

Cùng với việc cần có một thị trường thống nhất trên toàn quốc, nên giao quyền hạn quản lý ở mức hợp lý cho chính quyền địa phương các cấp. Khả năng tự do lưu chuyển của hàng hóa trên thị trường thống nhất toàn quốc là tiền đề để kinh tế phát triển. Đồng thời, giữa Trung ương và địa phương phải có sự phân cấp hợp lý, hạn chế việc tập trung quá nhiều quyền hạn tài chính ở cấp Trung ương, mở rộng quyền hạn của địa phương trong quản lý kinh tế.

Phải có tầm nhìn chiến lược trong phát triển kinh tế theo hướng mở. Tối ưu hóa cơ cấu xuất, nhập khẩu, tận dụng tốt hơn nữa thị trường ngoài nước và nguồn lực từ bên ngoài. Mở rộng đầu tư ra nước ngoài, thông qua đó tìm kiếm nguồn lực cho phát triển kinh tế. Thu hút các tri thức và mở rộng mạng lưới tiêu thụ trên thị trường quốc tế, nâng cao năng lực đổi mới kỹ thuật và năng lực kinh doanh của doanh nghiệp.

_______________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2014

PGS, TS Vũ Văn Phúc

Tạp chí Cộng sản

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền