Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Thứ ba, 28 Tháng 7 2015 10:15
50071 Lượt xem

Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới

(LLCT) - Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm chủ quyền biển, đảo của nước ta, việc dự báo, đánh giá những nhân tố tác động, ảnh hưởng đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, đề xuất các giải pháp về nhận thức và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là yêu cầu khách quan, cấp thiết.

(Nguồn: internet)

1. Những nhân tố tác động, ảnh hưởng đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc

Kinh tế thế giới vẫn gặp khó khăn, khủng hoảng kinh tế chưa được khắc phục nhưng sẽ từng bước phục hồi, cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh tạo ra cơ hội và thách thức mới trong phát triển kinh tế.

Mỹ chuyển trọng tâm chiến lược sang châu Á - Thái Bình Dương nhằm củng cố vị thế siêu cường số 1 và lợi ích chiến lược, thực thi phương thức lật đổ các chính quyền cản trở lợi ích của Mỹ bằng “cách mạng màu, cách mạng đường phố”, bạo loạn kết hợp với bao vây cấm vận kinh tế, gây sức ép chính trị, ngoại giao; tạo ra lực lượng đối lập bên trong, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, kích động gây bạo loạn tạo cớ can thiệp.

Trung Quốc thực hiện chủ trương “chấn hưng dân tộc Trung Hoa”, trỗi dậy mạnh mẽ, chủ động can dự vào các vấn đề chính trị, kinh tế, ngoại giao, an ninh thế giới; tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ lợi ích cốt lõi, giành chủ quyền biển, đảo ở biển Hoa Đông và Biển Đông v.v.. nhằm trở thành cường quốc hàng đầu ở châu Á và thế giới, cạnh tranh vai trò lãnh đạo của Mỹ; chủ động sử dụng con bài đầu tư, viện trợ kinh tế, lôi kéo, chi phối một số nước, chia rẽ ASEAN, Việt Nam, Lào, Campuchia.

Bất ổn chính trị, xung đột cục bộ trên thế giới và khu vực có những diễn biến khôn lường, có chiều hướng gia tăng; cạnh tranh giữa Mỹ và các cường quốc làm cho tình hình thế giới diễn biến phức tạp; các thế lực thù địch đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, kích động thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “bạo loạn” lật đổ chế độ; tranh chấp Biển Đông diễn biến phức tạp đe dọa chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia…

Sự nghiệp đổi mới của nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, giữ vững sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội; thu nhập và đời sống của nhân dân được cải thiện v.v.. Tuy nhiên còn nhiều tồn tại yếu kém và phát sinh những nhân tố mới ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:

Một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, tham nhũng, quan liêu làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn yếu kém, nhiều vụ việc xảy ra do yếu kém trong quản lý nhà nước gây ra băn khoăn, lo lắng trong nhân dân.

Kinh tế tuy ổn định và tăng trưởng nhưng chưa bền vững; năng suất, chất lượng hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp; đầu tư dàn trải, lãng phí còn lớn; tỷ lệ thất nghiệp, nghèo đói còn cao. Tình hình tranh chấp, khiếu kiện của nhân dân, nhất là khiếu kiện về đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng còn diễn biến phức tạp và chưa được giải quyết thoả đáng, gây bức xúc trong xã hội, các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, chia rẽ sự đoàn kết nhân dân với Đảng, Nhà nước…

2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc

Một là, khắc phục những hạn chế yếu kém, đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước đối với việc thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương đối với công tác quốc phòng, an ninh. Trên cơ sở đó tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác quốc phòng, an ninh ở các cấp, các ngành, địa phương.

Thường xuyên quan tâm xây dựng các tổ chức Đảng trong Quân đội và Công an thực sự trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Xây dựng Quân đội, Công an chính quy, hiện đại, tinh nhuệ, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu và giành thắng lợi trong mọi tình huống. Trong tình hình hiện nay, cần ưu tiên đầu tư đi thẳng, tiến nhanh lên hiện đại đối với các lực lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ động, cảnh sát biển.

Tiếp tục củng cố và hoàn thiện nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trên từng địa bàn tỉnh, thành; đặc biệt chú trọng xây dựng thế trận lòng dân và thế trận phòng thủ trên các địa bàn chiến lược; xây dựng các khu phòng thủ tỉnh (thành) vững chắc đi đôi với xây dựng lực lượng cơ động tinh nhuệ.

Xây dựng thế trận khu vực phòng thủ, thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh kết hợp với thế trận an ninh nhân dân; kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương và trên phạm vi cả nước.

Mỗi khu vực phòng thủ tỉnh (thành) rà soát lại tình hình chính trị ở từng cơ sở, có kế hoạch giải quyết các điểm nóng, tháo gỡ các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữa nhân dân với lãnh đạo, quản lý địa phương, không để xảy ra các vấn đề nổi cộm về an ninh chính trị.

Xây dựng “thế trận lòng dân” phải nhanh chóng giải quyết những vấn đề bức xúc, xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng khó khăn, đặc biệt trên các địa bàn xung yếu.

Đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng, an ninh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng nội dung giáo dục quốc phòng, an ninh thích hợp cho từng cấp học, từng hệ đào tạo trong chương trình giáo dục.

Đầu tư thích đáng cho công nghiệp quốc phòng, xây dựng các kế hoạch cụ thể và thực hiện có hiệu quả sản xuất, trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật phù hợp với điều kiện đất nước và chiến tranh hiện đại; tận dụng khả năng công nghiệp dân dụng phục vụ quốc phòng, khai thác khả năng của công nghiệp quốc phòng phục vụ nhu cầu kinh tế. Huy động các ngành khoa học - kỹ thuật tham gia phát triển khoa học và công nghệ quân sự, an ninh, cải tiến vũ khí, trang bị, bảo đảm hậu cần kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang.

Đổi mới cơ chế chính sách về quốc phòng, an ninh, nhất là chính sách đối với Quân đội, Công an trong tình hình mới.

Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Sau khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, công tác tuyên truyền biển, đảo đã được đẩy mạnh, góp phần nâng cao nhận thức, khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân; đồng thời, dư luận quốc tế hiểu hơn về cơ sở pháp lý, lịch sử, lập trường của Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Nhiều chính phủ, chính khách, học giả trên thế giới, kể cả ở Trung Quốc, dư luận quốc tế đã lên tiếng đồng thuận ủng hộ lập trường chính nghĩa, lẽ phải của Việt Nam.

Trong thời gian tới, công tác tuyên truyền về biển, đảo cần có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và các phương tiện thông tin đại chúng, dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất từ cơ quan chức năng Trung ương. Đặc biệt, cần cung cấp thông tin kịp thời, minh bạch, chính xác để mọi người dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và nhân dân thế giới hiểu cơ sở pháp lý, cơ sở lịch sử và sự chiếm hữu thực tế của Việt Nam trên các vùng biển, đảo; hiểu rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; xây dựng niềm tin, ý chí quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và các hoạt động kinh tế biển.

Cần kết hợp công tác tuyên truyền về biển, đảo với công tác giáo dục pháp luật, làm cho cán bộ, nhân dân, nhất là ngư dân hiểu rõ các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về biển, nhất là Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật của tàu, thuyền nước ngoài ở vùng biển Việt Nam.

Cần sớm đưa các nội dung về chủ quyền biên giới và lãnh thổ, biển, đảo vào sách giáo khoa ở các cấp phổ thông và đại học; in và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng người Việt Nam và quốc tế các bản đồ mới về đường biên giới trên bộ và các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về Biển Đông, khẳng định vững chắc chủ quyền của Việt Nam, cả về mặt pháp lý, cơ sở lịch sử qua các thời kỳ.

Ba là, kiên trì giải quyết tranh chấp biển, đảo bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Là thành viên của Hiến chương Liên Hợp quốc, của UNCLOS cũng như Tuyên bố của các bên về cách ứng xử ở Biển Đông (DOC), Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế, kiên trì con đường giải quyết các vấn đề phát sinh bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau; trong đó, biện pháp chủ yếu là thông qua đàm phán, thương lượng, nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan, vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, vì hòa bình, ổn định ở khu vực và quốc tế. Trong khi kiên trì phấn đấu tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài, chúng ta yêu cầu các bên liên quan kiềm chế, không có hoạt động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, tuân thủ cam kết giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, cùng nhau nghiêm chỉnh thực hiện DOC, hướng tới xây dựng bộ Quy tắc ứng xử (COC) để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị và phát triển, vì lợi ích của tất cả các nước trong khu vực, vì an ninh chung của khu vực và thế giới. Tại các vùng biển không phải là khu vực tranh chấp, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, chúng ta khẳng định có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp với quy định của UNCLOS để bảo vệ chủ quyền và lợi ích hợp pháp của nước ta.

Trước tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, chúng ta cần có những biện pháp thích đáng ở các cấp độ khác nhau: song phương, khu vực và toàn cầu. Một mặt, kiên trì theo đuổi các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS; mặt khác, coi trọng sử dụng hiệu quả cơ chế toàn cầu và khu vực, thông qua các diễn đàn của Liên Hợp quốc và ASEAN để các tổ chức này có tiếng nói, thể hiện rõ quan điểm đối với hành vi vi phạm chủ quyền của một quốc gia thành viên, đồng thời chuẩn bị các tài liệu, căn cứ để khi cần thiết sử dụng các biện pháp pháp lý khởi kiện ra Tòa án quốc tế.

Bốn là, đẩy mạnh xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển đảo. Trong bối cảnh bất ổn trên các vùng biển của Việt Nam hiện nay, việc tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo và các hoạt động kinh tế biển, nhất là lực lượng Hải quân, Không quân, Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng, Lực lượng kiểm ngư là yêu cầu cấp bách. Hải quân nhân dânViệt Nam là lực lượng chuyên trách hoạt động trên biển - giữ vai trò nòng cốt và trách nhiệm nặng nề trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các vùng biển, đảo của Tổ quốc, cần được ưu tiên đầu tư xây dựng theo hướng đi nhanh và tiến thẳng lên hiện đại và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là các lực lượng thường xuyên tuần tra trên biển và chốt giữ các đảo ở khơi xa. Cảnh sát biển Việt Namlà lực lượng chuyên trách quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên các vùng biển của Tổ quốc cần được tiếp tục củng cố, hoàn thiện về tổ chức biên chế, tăng cường trang bị hiện đại, bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt và đáp ứng cho sự phát triển trong tương lai. Bộ đội biên phòngcần được đầu tư bảo đảm đủ trang bị kỹ thuật, phương tiện khí tài, phương tiện cơ động… đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ - cứu nạn, chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội trên vùng biển, đảo của Tổ quốc. Xây dựng lực lượng dân quântự vệ biểntheo phương châm “rộng khắp”, ở đâu có tàu, thuyền hoạt động trên biển, có dân định cư ở ven biển và trên đảo, ở đó có dân quân tự vệ; lấy các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã làm nòng cốt; tổ chức biên chế phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của từng địa phương, bảo đảm tạo thành 3 tuyến: ven bờ, trong lộng, ngoài khơi; coi trọng xây dựng lực lượng hoạt động trên biển, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Kiểm ngưlà lực lượng mới được xây dựng, cần được gấp rút kiện toàn về tổ chức, nhân lực, với các đội tàu được trang bị hiện đại từ cấp Trung ương đến các vùng, các chi cục thuộc 28 tỉnh, thành phố ven biển. Đây là lực lượng kiểm soát dân sự của Việt Nam, có đầy đủ thẩm quyền để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tàu, thuyền, giàn khoan của nước ngoài; hỗ trợ ngư dân, bảo đảm an ninh trật tự, bảo vệ chủ quyền quốc gia ở các vùng biển, đảo của Tổ quốc.

Năm là, ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình phòng thủ ở các vùng biển, đảo. Cần tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình dân sinh trên các đảo, bảo đảm cuộc sống của cư dân, khẳng định chủ quyền của đất nước. Gắn với xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình dân sinh phải chủ động xây dựng các công trình phòng thủ biển, đảo, đủ khả năng ngăn chặn các hoạt động xâm nhập, đánh chiếm đảo của các lực lượng nước ngoài.

Xây dựng lực lượng khai thác biển, có chính sách, kế hoạch hỗ trợ ngư dân bám biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.Để khẳng định chủ quyền biển, đảo cần đẩy mạnh các hoạt động khai thác trên các vùng biển thuộc chủ quyền của đất nước. Cần tăng cường các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí, bảo vệ các hoạt động của công ty dầu khí và các nhà đầu tư nước ngoài. Xúc tiến việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã, công ty tư nhân trong hoạt động đánh bắt, chế biến hải sản. Có chính sách, kế hoạch hỗ trợ ngư dân đánh bắt hải sản, bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Các lực lượng đánh bắt, khai thác trên biển phải được đầu tư, hỗ trợ đồng bộ cả về phương tiện, cung cấp hậu cần nghề cá và thu mua, chế biến hải sản. Sự có mặt của các lực lượng này trên các ngư trường không chỉ có ý nghĩa phát triển kinh tế biển mà còn góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Sáu là, nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc diễn ra trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng, đối ngoại, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình của từng lĩnh vực, của các cấp, các ngành, được cụ thể hóa trong hoạt động của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như trong từng quy hoạch, kế hoạch cụ thể ở địa phương và các ngành vừa phải quan tâm đến mục tiêu kinh tế - xã hội, vừa phải chú ý đến yêu cầu của quốc phòng - an ninh, tính đến việc sử dụng cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh khi cần thiết. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phải phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.

Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải có giải pháp đột phá ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, quan liêu, tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, gắn bó tình cảm yêu nước với yêu chế độ, bảo vệ Tổ quốc với bảo vệ chế độ XHCN.

Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt, vì vậy phải chăm lo xây dựng các lực lượng vũ trang có quân số hợp lý, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, được bố trí phù hợp trên các địa bàn chiến lược và có lực lượng cơ động mạnh, đồng thời tham gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng các công trình trọng điểm, công trình phát triển kinh tế và phòng thủ biên giới, biển đảo, xây dựng các đơn vị kinh tế - quốc phòng giúp đỡ nhân dân khu vực biên giới, hải đảo, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn an ninh trật tự.

________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2014

 

PGS, TS Nguyễn Văn Mạnh

Viện Nhà nước và pháp luật

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền