Trang chủ    Ảnh chính    Dấu ấn trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng qua cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Thứ tư, 12 Tháng 4 2023 15:06
20509 Lượt xem

Dấu ấn trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng qua cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

(LLCT) - Cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được xuất bản vào dịp Kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 - 3-2-2023) có ý nghĩa sâu sắc về chính trị, tư tưởng, lý luận và thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Trong đó, nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Tổng Bí thư đề cập một cách xuyên suốt, bao trùm, với nhiều nội dung hết sức quan trọng, sâu sắc và rất đậm nét.

Cuốn sách "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta trong sạch, vững mạnh" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Ảnh: IT

1. Khẳng định vai trò, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Đây là nội dung được Tổng Bí thư đề cập trong nhiều bài viết, bài phát biểu từ trước thềm Đại hội VI của Đảng cho đến nay. Trong bài viết Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng (bài đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 8-1986, với bút danh Phan Chính), đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ: “Kinh  nghiệm lịch sử của cách mạng nước ta và phong trào cộng sản quốc tế đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng; sự tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là quy luật phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa”(1). Đồng chí khẳng định “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn hiện nay có nghĩa là phải làm cho Đảng trưởng thành hơn nữa trong việc xây dựng, phát triển và cụ thể hóa đường lối, đề ra được những giải pháp đúng đắn thực hiện các mục tiêu đã định, nâng cao trình độ và năng lực tổ chức thực tiễn của các tổ chức đảng, năng lực quản lý và điều hành của bộ máy nhà nước”(2). Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đại hội VI (tháng 12-1986) của Đảng khẳng định càng đi vào đổi mới, Đảng càng phải coi trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đại hội chỉ rõ: “Phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa”(3). Cũng ngay trong bài viết này, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã nêu những yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong công tác xây dựng Đảng, đó là: Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý; Đổi mới phong trào làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt trong Đảng; Nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong Đảng; Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; Tăng cường công tác tư tưởng, lý luận; Tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng.

Về tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong bài viết Công tác xây dựng Đảng: nên đánh giá thế nào cho đúng  (bài đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 2-1996), đồng chí Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Càng đi vào phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, càng cần phải đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế và mọi hoạt động xã hội khác. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì không thể có chủ nghĩa xã hội”(4), “Chăm lo xây dựng Đảng, thường xuyên củng cố, nâng cao sức mạnh của Đảng là một bảo đảm cơ bản quyết định con đường đi đúng đắn của dân tộc”(5).

Trong bài Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh - Điều kiện bảo đảm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng  (đăng trên Tạp chí Cộng sản số 3, tháng 2-2000), đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cách mạng đúng đắn và có hiệu quả, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức mạnh của Đảng về mọi mặt, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn của toàn bộ sự nghiệp cách mạng”(6).

Trong Bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” (ngày 27-02-2012), đồng chí Tổng Bí thư đã nêu bốn cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong bối cảnh mới: Một là, xuất phát từ vai trò lãnh đạo của Đảng và tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta; Hai là, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của nước ta ngày càng to lớn, nặng nề, đòi hỏi Đảng phải nâng tầm lãnh đạo lên cao hơn nữa, nâng sức chiến đấu mạnh hơn nữa; Ba là, xuất phát từ thực trạng những hạn chế, yếu kém của bản thân Đảng; Bốn là, xuất phát từ sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Đồng chí kết luận, chính vì vậy “phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, chế độ ta”(7).

Cũng trong bài phát biểu kết luận tại Hội nghị này, đồng chí Tổng Bí thư đã nêu, phân tích và làm rõ một số nhóm vấn đề mà cán bộ, đảng viên quan tâm hoặc còn băn khoăn, như: việc tổ chức thực hiện Nghị quyết như thế nào, liệu có làm được không?; việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình; một số nội dung đặt ra trong công tác cán bộ; phân tích, làm rõ một số khái niệm, thuật ngữ xây dựng Đảng...

Trong bài Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta (phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Kết luận và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày 01-12-2021), đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh “Chúng ta đều đã biết, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta; và công tác xây dựng Đảng luôn luôn là nhiệm vụ then chốt của Đảng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta”(8). Cũng trong bài viết này, Tổng Bí thư đã nêu những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đồng thời, Tổng Bí thư khẳng định, trong lịch sử Đảng ta, hầu như không có Đại hội nào và không mấy Hội nghị mà Trung ương không đề cập đến công tác xây dựng Đảng. Từ khi bước vào công cuộc đổi mới năm 1986, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng(9). Chỉ tính riêng 10 năm gần đây, ngay từ đầu mỗi nhiệm kỳ, các Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương đều bàn và ban hành những nghị quyết, kết luận, quy định hết sức quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; lần sau sâu sắc, toàn diện và cụ thể, rõ ràng hơn so với lần trước.

Cùng với việc nêu những kết quả nổi bật, đồng chí Tổng Bí thư cũng chỉ rõ những hạn chế và những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở quán triệt quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đại hội XIII, tình hình trong nước, quốc tế và khu vực, những thuận lợi và khó khăn, thách thức, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới, đồng chí Tổng Bí thư đã nhấn mạnh yêu cầu, nhiệm vụ chung của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời gian tới là “Đảng ta phải tiếp tục nâng cao hơn nữa bản lĩnh và trí tuệ, thực sự “là đạo đức, là văn minh”; chúng ta phải nỗ lực hơn nữa trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng ta và hệ thống chính trị nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ, đủ sức để lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn”(10).

Cũng trong bài phát biểu này, đồng chí Tổng Bí thư đã phân tích, làm rõ, sâu sắc hơn các yêu cầu, nhiệm vụ của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII với nhiều điểm mới: Một là, nội dung, phạm vi nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đề cập sâu rộng hơn, tinh thần chỉ đạo chủ động, tiến công quyết liệt, mạnh mẽ hơn; Hai là, mục tiêu xây dựng, chỉnh đốn Đảng được xác định lần này cao hơn và sát hợp hơn; Ba là, bổ sung, làm rõ, đồng bộ và sắc bén hơn một số nhiệm vụ, biện pháp trong thời gian tới; Bốn là, bổ sung, hoàn thiện toàn diện hơn các thể chế, thiết chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Có thể khẳng định, xuyên suốt các bài viết trong cuốn sách của Tổng Bí thư cho thấy sự trăn trở, quan tâm đặc biệt của đồng chí đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm trong sạch bộ máy Đảng, Nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân với vai trò lãnh đạo của Đảng và công cuộc xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đồng chí Tổng Bí thư luôn nhất quán quan điểm về sự kiên định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhân tố quyết định thành bại của sự nghiệp cách mạng. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, chống chủ nghĩa cá nhân, chống suy thoái và sự hư hỏng trong Đảng.

2. Khẳng định những thành tựu nổi bật, mang dấu ấn lịch sử về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong công cuộc đổi mới

Đây là nội dung nổi bật, có dấu ấn lịch sử xây dựng Đảng được Tổng Bí thư đề cập một cách sâu sắc trong nhiều bài viết của cuốn sách, trong đó có bài Công tác xây dựng Đảng: Nên đánh giá thế nào cho đúng (đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 2-1996) và bài Vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước, in trong cuốn sách: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012. Đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “Toàn bộ thành tựu và thiếu sót của công cuộc đổi mới gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng. Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu của đổi mới... Sự tiến bộ và trưởng thành của Đảng cũng là một thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới, thậm chí có thể nói là thành tựu quan trọng nhất của công cuộc đổi mới”(11). Qua hai bài viết trên, đồng chí Tổng Bí thư đã nêu rõ những thành tựu quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt được trong quá trình đổi mới:

Thứ nhất, thành tựu nổi bật và quan trọng nhất là Đảng đã đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện dần đường lối đổi mới một cách đúng đắn, sáng tạo, hình thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng ta đã có được một hệ thống các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới, tuy chưa thật hoàn chỉnh, nhưng là những định hướng cơ bản và cực kỳ quan trọng đối với cách mạng nước ta.

Thứ hai, Đảng ta đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Ở những bước ngoặt của cách mạng, trước những diễn biến rất phức tạp của tình hình quốc tế, Đảng đã kịp thời có định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, chống những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng và trong nhân dân.

Thứ ba, Đảng giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Có bước tiến về thực hiện dân chủ trong Đảng, lãnh đạo thực hiện dân chủ trong xã hội, phát huy trí tuệ tập thể, sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ tư, đổi mới, sắp xếp, kiện toàn một bước hệ thống chính trị của Đảng và các cơ quan nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo thông suốt, toàn diện trên các lĩnh vực; củng cố tổ chức cơ sở đảng; đổi mới công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; nhận thức ngày càng rõ hơn và cải tiến tốt hơn phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.

Không chỉ quan tâm và có những đóng góp mang dấu ấn quan trọng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn có những đóng góp quan trọng về lý luận và tổng kết thực tiễn xây dựng Đảng cầm quyền. Trong Bài phát biểu tại Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 2-2004, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã nêu 9 vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, trong đó đồng chí khẳng định “Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, phải luôn luôn kiên định vai trò lãnh đạo, vị thế cầm quyền của Đảng; đồng thời làm tốt công tác xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố bảo đảm cho công cuộc đổi mới thành công, đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Càng đi vào đổi mới, đi vào kinh tế thị trường, mở cửa, càng phải giữ vững, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, nắm chắc vai trò cầm quyền của Đảng. Tuyệt đối không mơ hồ, dao động về vấn đề này”(12). Một số vấn đề khác trong xây dựng Đảng cầm quyền được đồng chí nhấn mạnh là: phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của Đảng; nâng cao trình độ trí tuệ và chất lượng công tác lý luận của Đảng; thường xuyên coi trọng việc xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức, bảo đảm nội bộ luôn luôn đoàn kết thống nhất, có sức chiến đấu cao; Đảng phải thường xuyên chăm lo công tác cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trên tất cả các lĩnh vực; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, trước hết là sự lãnh đạo đối với Nhà nước.

Cùng với những thành tựu về lý luận, một trong những thành tựu có dấu ấn lịch sử nổi bật về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thể hiện trong cuốn sách của Tổng Bí thư, đó là những kết quả của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên của Đảng và hệ thống chính trị, thể hiện qua những con số cụ thể.

Trong bài phát biểu kết luận tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012-2022, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, trong 10 năm gần đây, với việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí (trực thuộc Bộ Chính trị) đến nay, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, ngày càng đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể, rất quan trọng, toàn diện, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, và thực sự “đã trở thành phong trào, xu thế không thể đảo ngược”, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được bạn bè quốc tế ghi nhận, thể hiện ở 5 điểm nổi bật sau:

(1) Công tác phát hiện và xử lý tham nhũng đã được chỉ đạo và thực hiện một cách bài bản, đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả, tạo bước đột phá trong công tác phòng, chống tham nhũng, khẳng định quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào”.

Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, thanh tra, kiểm toán của Nhà nước được tăng cường, phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước, góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng.

Cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra các cấp đã chủ động, tăng cường chỉ đạo, tập trung kiểm tra, xử lý các tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; xử lý cả cán bộ đương chức và cán bộ đã nghỉ hưu, cả cán bộ cấp cao và cán bộ trong lực lượng vũ trang; làm một cách nghiêm minh từ trên xuống dưới, có trọng tâm, trọng điểm; kỷ luật đảng đi trước, tạo tiền đề, mở đường cho kỷ luật hành chính và cho công tác thanh tra, điều tra, xử lý hình sự theo pháp luật.

Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thể hiện rõ bản lĩnh, tinh thần kiên quyết, mở rộng phạm vi, đối tượng kiểm tra xuống đến cả cấp ủy cấp huyện và cơ sở; xử lý dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương.

Trong giai đoạn 2012 - 2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng; đã kỷ luật 190 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 04 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 36 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương; 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay đã thi hành kỷ luật 50 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (cao hơn gấp 4 lần so với nhiệm kỳ khóa XI và bằng gần một nửa số cán bộ cấp cao bị xử lý của nhiệm kỳ khóa XII), trong đó có 08 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương, 20 sĩ quan cấp tướng. Đây là một bước đột phá trong công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng. Các ngành Thanh tra, Kiểm toán có nhiều cố gắng, công tâm, khách quan, làm rõ các sai phạm; đã xử lý và kiến nghị xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có liên quan, thu hồi nhiều tài sản cho Nhà nước(13).

Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế được tiến hành một cách kiên trì, kiên quyết, không khoan nhượng, không nương nhẹ, không làm oan, sai; không bỏ lọt tội phạm; rất nghiêm minh, nhưng cũng rất nhân văn, nhân ái, có lý, có tình; hầu hết các đối tượng bị xử lý đều nhận thức rõ sai phạm của mình và tâm phục, khẩu phục, tỏ rõ sự ăn năn, hối cải, xin lỗi Đảng, Nhà nước và nhân dân; có tác dụng cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa mạnh mẽ, được dư luận, nhân dân rất đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao; tạo bước đột phá trong công tác phát hiện và xử lý tham nhũng.

Trong 10 năm qua, các cơ quan tố tụng trong cả nước đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm gần 16.000 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế với hơn 30.300 bị cáo. Riêng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã đưa vào diện theo dõi, chỉ đạo gần 1.000 vụ án, vụ việc ở ba cấp độ; trong đó trực tiếp theo dõi, chỉ đạo 313 vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, đã đưa ra xét xử sơ thẩm 120 vụ án, 1.083 bị cáo, trong đó có 37 cán bộ diện Trung ương quản lý, bị xử lý hình sự (01 Ủy viên Bộ Chính trị, 10 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 06 bộ trưởng, nguyên bộ trưởng, 13 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang...). Các cơ quan tiến hành tố tụng trong cả nước đã khởi tố, điều tra 2.657 vụ với 5.841 bị can, truy tố 2.628 vụ, 6.199 bị can, xét xử sơ thẩm 2.439 vụ, với 5.647 bị can về tội tham nhũng. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã khởi tố, điều tra 4.200 vụ, 7.572 bị can về các tội tham nhũng, chức vụ, kinh tế. Cùng với việc tập trung chỉ đạo xử lý nghiêm các sai phạm, công tác thu hồi tài sản tham nhũng cũng có nhiều chuyển biến tích cực; việc kê biên, thu giữ tài sản trong nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng đạt khá cao; tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế tăng lên rõ rệt (nếu như năm 2013, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trong giai đoạn thi hành án chỉ đạt dưới 10%, thì giai đoạn 2012 - 2022, bình quân đạt tỷ lệ 34,7%)(14).

(2) Đi đôi với việc tập trung chỉ đạo công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, công tác xây dựng, hoàn thiện cơ chế, thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng được chú trọng đẩy mạnh, từng bước hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan tham mưu, giúp việc của Trung ương đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp, quy định mới, mạnh mẽ, ngày càng quyết liệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, hoàn thiện thể chế về kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Nhiều quy định, nghị quyết được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đi vào cuộc sống; khắc phục được một bước những sơ hở, bất cập trước đây làm phát sinh tiêu cực, tham nhũng. Đến nay, các chủ trương, quy định của Đảng, các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã khá đầy đủ.

(3) Công tác cán bộ, cải cách hành chính bảo đảm tính công khai, minh bạch; xác định rõ trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và các giải pháp phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực cũng đã được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một cách quyết liệt và đạt kết quả tốt. Công tác cán bộ đã có nhiều đổi mới theo hướng ngày càng dân chủ, công tâm, khách quan, công khai, minh bạch hơn; đúng nguyên tắc, đúng quy trình, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng. Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương tích cực triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, tăng cường tính công khai, minh bạch, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực.

(4) Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng được tăng cường và có nhiều đổi mới; sự giám sát của các cơ quan dân cử, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, nhân dân và báo chí, truyền thông trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được phát huy tốt hơn. Hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh; nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được nâng lên. Việc công khai kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế; chủ động cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm, dư luận quan tâm, cũng đã góp phần định hướng tốt dư luận xã hội và thể hiện sự công khai, minh bạch trong xử lý tham nhũng. Các cơ quan thông tấn, báo chí đã tích cực vào cuộc, đồng hành cùng Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng trong phòng, chống tham nhũng; vừa tuyên truyền, vừa tích cực đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực xấu, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

(5) Chú trọng việc kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng làm công tác phòng, chống tham nhũng. Chức năng, nhiệm vụ, Quy chế làm việc của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được sửa đổi, bổ sung, với nhiều đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động. Ban Nội chính Trung ương và ban nội chính các tỉnh ủy, thành ủy được tái lập đã bước đầu có nhiều nỗ lực, cố gắng, nâng cao hiệu quả tham mưu về công tác phòng, chống tham nhũng. Ban Nội chính Trung ương đã chủ động, sâu sát, kiên quyết, kiên trì, có bản lĩnh trong thực hiện nhiệm vụ tham mưu, đề xuất, giúp Ban Chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch công tác, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; xử lý nhiều vụ án, vụ việc tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng trong công tác phòng, chống tham nhũng được chú trọng, tăng cường, nhất là sự phối hợp giữa các cơ quan kiểm tra, giám sát, nội chính của Đảng với cơ quan thanh tra, kiểm toán, điều tra; giữa cơ quan thanh tra, kiểm toán với cơ quan điều tra; giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trung ương, địa phương và các bộ, ngành ngày càng chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả hơn. Hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng cũng đã được tăng cường; hoạt động phòng, chống tham nhũng cũng từng bước được mở rộng ra cả khu vực ngoài nhà nước.

Có thể khẳng định, chưa bao giờ công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực lại được thực hiện một cách mạnh mẽ, đồng bộ, quyết liệt, bài bản và hiệu quả như thời gian gần đây; để lại dấu ấn nổi bật, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội và củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

3. Nêu ra nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Có thể khẳng định, cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một “cẩm nang” sâu sắc, toàn diện, chứa đựng nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Ngay trong bài viết Một số bài học về xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới (đăng trên Tạp chí Cộng sản số tháng 12-1996 với bút danh Phan Đăng Phú), đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã viết: Từ thực tiễn hoạt động phong phú và sôi động của Đảng ta, nhân dân ta trong 10 năm qua, cả thắng lợi, thành tựu và những thiếu sót, khuyết điểm, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu sau:

(1) Trong quá trình đổi mới, Đảng luôn luôn nắm chắc vai trò lãnh đạo, đồng thời tích cực tự đổi mới, tự chỉnh đốn một cách có hiệu quả. Thực tiễn cho thấy, muốn tiến hành đổi mới thành công, trước hết phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng, coi đây là vấn đề nguyên tắc. Bởi vì, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố bảo đảm cho sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Không có sự lãnh đạo của Đảng thì không thể có độc lập dân tộc vững chắc, không có quyền làm chủ thực sự của nhân dân, không có Nhà nước của dân, do dân, vì dân và càng không có chủ nghĩa xã hội. Để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cách mạng đúng đắn và có hiệu quả, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức mạnh về mọi mặt. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.

(2) Giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng. Đây là những vấn đề cơ bản và có tính nguyên tắc không chỉ đối với tất cả các đảng mácxít - lêninnít chân chính, mà còn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của Đảng ta - một đảng ra đời và trưởng thành ở một nước nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân còn thấp. Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề giữ cho Đảng không biến chất, trước sau đều mang bản chất của giai cấp công nhân là vấn đề hết sức quan trọng và quyết định. Là người lãnh đạo, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp, đồng thời là lãnh tụ chính trị của cả dân tộc, hơn ai hết, Đảng phải có trí tuệ cao và có tính tiên phong.

(3) Kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ, chăm lo xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, “Hiện nay, hơn lúc nào hết, càng phải bảo vệ, phát triển và làm phong phú thêm nội dung, phương thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhận thức đúng và thống nhất nội dung, bản chất của tập trung dân chủ, mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ; đồng thời cụ thể hóa, thể chế hóa thành các quy chế, quy định, quy trình cụ thể, nhất là trong việc dân chủ thảo luận ra nghị quyết và trong công tác cán bộ. Dân chủ là cơ sở của tập trung, phải phát huy mạnh mẽ dân chủ trong Đảng; đồng thời dân chủ phải có lãnh đạo, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương”(15). Đoàn kết thống nhất là một truyền thống quý báu của Đảng ta và là nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng nước ta. Thực tế cho thấy, trước bước ngoặt của cách mạng, những lúc khó khăn, nguy hiểm, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh đạo cao nhất, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách mạng.

(4) Thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực gánh vác nhiệm vụ cách mạng. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, thực tiễn đã chứng minh sâu sắc chân lý cán bộ đóng vai trò quyết định. Là Đảng cầm quyền, trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng càng phải đặc biệt chăm lo công tác cán bộ, chăm lo cán bộ cho cả hệ thống chính trị, cho toàn xã hội, trên tất cả các lĩnh vực. Đảng phải coi trọng xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và cấp cơ sở. Đổi mới tư duy, phương pháp tiến hành công tác cán bộ theo hướng dân chủ kết hợp với tập trung thống nhất, theo một quy trình chặt chẽ.

(5) Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, bảo vệ lợi ích thiết thực và quyền làm chủ của nhân dân. Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ, ở đâu và lúc nào, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thường xuyên chăm lo lợi ích cho nhân dân, thì ở đó Đảng và dân có mối quan hệ tốt đẹp, cán bộ, đảng viên được dân tin, dân phục, dân theo và ngược lại. Trong bài viết Bài học lịch sử vô giá, đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 2-1987, đồng chí Nguyễn Phú Trọng viết: “Chúng ta đều biết, tin ở dân, chăm lo cho dân, lấy dân làm gốc là một bài học lớn được rút ra từ chiều sâu lịch sử”, “Liên hệ mật thiết với quần chúng là truyền thống tốt đẹp và là nguồn sức mạnh vô địch của Đảng ta(16), là quy luật tồn tại và hoạt động của Đảng Cộng sản. “Chăm lo lợi ích, hạnh phúc của quần chúng lao động là mục đích thiêng liêng, là lý tưởng cao quý của Đảng”(17).

(5) Đổi mới phương thức lãnh đạo và hoạt động của Đảng, coi đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cho Đảng làm đúng chức năng lãnh đạo, phát huy mạnh mẽ vai trò của cơ quan chính quyền, các tổ chức kinh tế và các đoàn thể. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc xác định phương hướng, mục tiêu, con đường, giải pháp đi lên của đất nước, sự hưng thịnh của dân tộc. Từ đó lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Đảng lãnh đạo thể chế hóa, luật pháp hóa các nghị quyết của Đảng; thiết kế tổ chức bộ máy; đào tạo, bố trí, quản lý, rèn luyện cán bộ; kiểm tra việc thực hiện; tổng kết phát triển lý luận, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách. Tất cả đều nhằm bảo đảm định hướng chính trị đúng đắn trên con đường đi lên của đất nước và sự phát triển của dân tộc.

Cùng với những bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cuốn sách của đồng chí Tổng Bí thư còn chỉ ra nhiều bài học quý trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực:

Thứ nhất, phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để từ đó có quyết tâm chính trị rất cao, biện pháp rất đúng, hành động quyết liệt và phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất của Đảng, mà trực tiếp, thường xuyên là của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trực thuộc Bộ Chính trị.

Thứ hai, phải tiến hành thường xuyên, liên tục, không nghỉ, không ngừng ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự; với những bước đi vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm. Vấn đề quan trọng là phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể” tham nhũng, tiêu cực; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám” tham nhũng, tiêu cực; xây dựng văn hóa liêm chính để “không muốn” tham nhũng, tiêu cực; và một cơ chế bảo đảm để “không cần” tham nhũng, tiêu cực.

Thứ ba, phải đặc biệt quan tâm, chú trọng công tác cán bộ, nhất là phải đánh giá, lựa chọn, bố trí đúng cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý; tăng cường quản lý, giáo dục, phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Mọi cán bộ, đảng viên phải luôn luôn tự soi, tự sửa, giữ gìn phẩm chất đạo đức.

Thứ tư, phải kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, kịp thời xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực; trong đó, phòng ngừa là chính, là cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là quan trọng, đột phá. Phải quán triệt và thực hiện phương châm phòng ngừa, phát hiện từ sớm, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn.

Thứ năm, phải kiểm soát cho được việc thực hiện quyền lực nhà nước. Mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền lực phải được ràng buộc bằng trách nhiệm; quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; bất kể ai lạm dụng, lợi dụng quyền lực để trục lợi đều phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý vi phạm. Mặt khác, phải xây dựng cho được văn hóa công vụ của mỗi ngành, cơ quan, đơn vị. Văn hóa công vụ sẽ bảo đảm tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, minh bạch, hiệu quả trong thực thi nhiệm vụ.

Thứ sáu, chú trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò nòng cốt và sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, nhịp nhàng, kịp thời, hiệu quả của các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hơn ai hết, phải có bản lĩnh vững vàng, có dũng khí đấu tranh; phải trung thực, liêm chính, “chí công vô tư”, thực sự là “thanh bảo kiếm” sắc bén của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Thứ bảy, phải gắn công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Thứ tám, các giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải phù hợp với bối cảnh, yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và truyền thống văn hóa của dân tộc; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài; kế thừa kinh nghiệm của các nhiệm kỳ trước. Phải phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cả trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước; thường xuyên tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, bổ sung những vấn đề mới, cách làm hay, sáng tạo, góp phần nâng cao hiệu quả công tác; không ngừng đổi mới tư duy, hoàn thiện lý luận về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 541 (tháng 3-2023)

Ngày nhận bài: 05-3-2023; Ngày bình duyệt: 08-3-2023; Ngày duyệt đăng: 22-3-2023.

 

(1), (2), (4), (5), (6), (7), (8), (10), (11), (12), (15), (16), (17) Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta trong sạch, vững mạnh, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.209, 210, 248, 249, 267, 305, 444, 449, 240, 370-371, 257, 225, 228.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.364-365.

(9) Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) năm 1992 về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII) năm 1999 “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”...

(13) Từ năm 2012 đến nay, qua công tác thanh tra, kiểm toán, đã xử lý, thu hồi được hơn 975 nghìn tỷ đồng, gần 76 nghìn ha đất; xử lý trách nhiệm gần 44.700 tập thể, cá nhân; chuyển cho cơ quan điều tra, xử lý gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu phạm tội; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, thay thế hơn 2.000 văn bản, trong đó có nhiều văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp.

(14) Các cơ quan thi hành án dân sự các cấp đã thu hồi 61.000 tỷ đồng; các vụ án thuộc diện Ban chỉ đạo Trung ương theo dõi, chỉ đạo đã thu hồi được gần 50.000 tỷ đồng, có những vụ án thu hồi hàng nghìn tỷ như: Vụ Phạm Công Danh hơn 6.000 tỷ đồng; vụ Hứa Thị Phấn hơn 10.000 tỷ đồng; vụ AVG hơn 8.500 tỷ đồng...

PGS, TS DƯƠNG TRUNG Ý

Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền